* " người đọc xưa nay vẫn xen truyện kiều như một hòn ngọc quý cơ hồ không thể thay đổi , thêm bớt một tí gì ,như một tiếng đàn lạ gần như không một lần nào lỡ nhịp ngang cung "
I. Mở bài:
- Giới thiệu, dẫn dắt vấn đề
- Trích dẫn ý kiến: "Người đọc xưa nay vẫn xem Truyện Kiều như một hòn ngọc quý cơ hồ không thể thay đổi, thêm bớt một tí gì, như một tiếng đàn lạ gần như không một lần lỡ nhịp ngang cung".
II. Thân bài
1. Giải thích ý kiến Hoài Thanh
* Giải thích
- hòn ngọc quý cơ hồ không thể thay đổi, thêm bớt một tí gì: ngôn ngữ “Truyện Kiều” đẹp đẽ đến mức hoàn thiện.
- “Tiếng đàn lạ gần như không một lần lỡ nhịp ngang cung”: ngôn ngữ “Truyện Kiều” phong phú, sáng tạo.
=> Hoài Thanh đánh giá rất cao về ngôn ngữ “Truyện Kiều”, về tài năng Nguyễn Du
* Chứng minh qua Truyện Kiều
- “Truyện Kiều” có nhiều con người, nhiều sự kiện, nhiều cảnh vật, nhiều tâm trạng khác nhau, thậm chí đối lập lẫn nhau, nhưng Nguyễn Du có đầy đủ vốn liếng ngôn ngữ để biểu đạt con người, sự kiện, tâm trạng
a. Tả người
- Nghệ thuật khắc hoạ tính cách nhân vật qua vài nét miêu tả ngoại hình, lời nói… của Thuý Vân, Thuý Kiều, Mã Giám Sinh, Hoạn Thư, Từ Hải
+ " Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn"
+ " Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang"
+“Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”
+ “Trước thầy sau tớ lao xao”
b. Tả cảnh: tả cảnh thiên nhiên
+ "Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung"
+ "Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha".
+ "Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa".
c. Tả tâm trạng
- Nghệ thuật miêu tả tâm trạng Thuý Kiều: nhớ người yêu, nhớ cha mẹ.
+ “Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
+ “Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mẩy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”.
III. Kết bài: