Nhật Bản (chiến tranh thế giới thứ nhất)
- Chạy đua vũ trang ồ ạt
- Chủ nghĩa đế quốc quân phiệt
Nhật Bản 1945 - 2000 (Chiến tranh thế giới thứ hai)
1945 - 1952
- Bị Mĩ chiếm đóng
- Bộ Chỉ huy tối cao lực lượng Đồng minh (SCAP) thực hiện 3 cuộc cải cách lớn.
- Dựa vào nỗ lực bản thân và viện trợ Mĩ, kinh tế phục hồi.
- Chủ trương liên minh chặt chẽ với Mĩ
- "Hiệp ước hòa bình Xan Phranxixco " (1951) chấm dứt chế độ chiếm đóng của Đồng minh (1952)
- "Hiệp ước an ninh Mĩ - Nhật" kí kết (19521) => nền tảng cho quan hệ liên minh Nhật - Mĩ.
1952 - 1973
- 1952 - 1960, kinh tế phát triển nhanh
- 1960 - 1973: phát triển "thần kì"
- Từ đầu những năm 70 trở thành một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính lớn của thế giới
- Khoa học kĩ thuật: đẩy nhanh sự phát triển bằng cách mua bằng phát minh sáng chế; tập trung vào sản xuất ứng dụng dân dụng
- Đối ngoại: nền tảng căn bản là liên minh chặt chẽ với MĨ.
- 1956, bình thường hóa quan hệ với Liên Xô
1973 - 1991
- Kinh tế phát triển xen kẽ suy thoái ngắn
-Từ nửa sau những năm 80, trở thành siêu cường tài chính số một thế giới, là chủ nợ lớn nhất thế giới.
- Chính sách đối ngoại mới, thể hiện trong Học thuyết Phu-cư-đa (1977) và Học thuyết Kaiphu (1991): tăng cường quan hệ với Đông Nam Á và ASEAN
- Kinh tế suy thoái nhưng vẫn là một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính lớn của thế giới.
- Tiếp tục duy trì sự liên minh chặt chẽ với Mĩ
- Học thuyết Miyadaoa (1993) và Học thuyết Hasimoto (1997): vẫn coi trọng quan hệ với Tây Âu, mở rộng đối ngoại toàn cầu, chú trọng phát triển quan hệ với các nước Đông Nam Á.