Đáp án đúng:
Giải chi tiết:Học sinh có thể trình bày theo những cách khác nhau, nhưng cần đảm bảo những ý chính sau:
I, GIỚI THIỆU CHUNG: (1,0 điểm)
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
+ Kim Lân là cây bút truyện ngắn tài năng. Ông là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn xuôi hiện đại Việt Nam, nhất là ở mảng đề tài nông thôn và hình tượng người nông dân trước Cách mạng.
+ "Vợ nhặt" là một truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân, được rút từ tập "Con chó xấu xí". Truyện có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc!
- Chị vợ nhặt tuy không được tác giả tập trung miêu tả rõ nét nhưng đã góp phần thể hiện sâu sắc tư tưởng của tác phẩm. Bàn về nhân vật có các ý kiến "Thị là người phụ nữ nghèo, cùng đường và liều lĩnh", lại có ý kiến "Thị là người giàu nữ tính và khát vọng"
II, CỤ THỂ: (4,0 điểm)
1/ Thị là người phụ nữ nghèo, cùng đường và liều lĩnh (1,5 điểm)
- Nhân vật này không có tên gọi, nhà văn chỉ gọi là: “người đàn bà”, “thị”, “con dâu” -> Cách gọi mang tính khái quát: thời bấy giờ không chỉ có một mà rất nhiều người đàn bà rơi vào hoàn cảnh như thế.
- Không ai biết gốc tích, lai lịch của người vợ nhặt
-> Dụng ý của tác giả: người vợ nhặt không quê hương, thân phận bèo bọt lênh đênh trôi dạt trong thảm họa đói khát, không lưu giữ chút gì về sự tồn tại của bản thân.
- Ngoại hình tiều tụy được miêu tả tỉ mỉ: Quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt, ngực gầy lép...
-> Người phụ nữ này đã phải chịu đói nhiều ngày, là đại diện cho những con người đói khát “tới đâu là nhà, ngã đâu là giường”.
- Lời nói: Đanh đá và trơ trẽn, là hậu quả của cuộc sống nghèo khó, ít học, là nạn nhân trực tiếp của cái đói. Cái đói khiến người phụ nữ mất hết cái đẹp của sự nữ tính và sự sĩ diện của bản thân “Đã thật thì đẩy chứ sợ gì, đằng ấy nhỉ” “Điêu! người thế mà điêu!” “Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”
- Hành động:
+ Gạ ăn: Vì nhu cầu sinh tồn mà sẵn sàng gạ ăn giữa đường giữa chợ, giữa đám đông xa lạ, quên ý tứ, không còn sĩ diện, bản năng sinh tồn đã lấn lướt tất cả.
+ Sẵn sàng theo người đàn ông mới chỉ gặp hai lần về làm vợ, biến lời rủ rê đùa nhiều hơn thật thành lời cầu hôn chính thức.
-> Thị bị cái đói xô đẩy, bị biến thành thân phận trôi dạt, tự hạ thấp giá trị của mình đến mức rẻ rúng ngang với những vật không có giá trị mà người ta vứt ngoài đường. Thị cũng thật liều lĩnh khi dám theo không một người đàn ông lạ về làm vợ, chỉ sau 2 lần gặp.
=> Thông qua nhân vật người vợ nhặt Kim Lân đã phản ánh chân thực cuộc sống, tình cảnh thê thảm của người dân lao động trong nạn đói khủng khiếp năm 1945, đặc biệt cho người đọc thấy được số phận rẻ rúng của người phụ nữ.
2, Thị cũng là người giàu nữ tình và khát vọng: (2,0 điểm)
- Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa: “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ lên xe rồi ta cùng về” thì người đàn bà kia lại im lặng (mà thường tâm lý im lặng là đồng ý). Sau đó thị theo Tràng về nhà mà không một chút do dự.
-> Đó là ý thức bám lấy sự sống là vì để được sống chứ không phải là loại người lẳng lơ. Cận kề bên cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Niềm lạc quan yêu sống của thị chính là một phẩm chất rất đáng quý.
- Trên đường về nhà chồng tâm trạng của thị có sự thay đổi rõ nét.. Trước cái nhìn “săm soi”, trước những lời bông đùa, chòng ghẹo của người dân ngụ cư thị ngượng nghịu, thiếu tự tin: “chân nọ bước díu cả vào chân kia… cái nón rách tàng che nửa khuôn mặt”. -> sự nữ tính, thẹn thùng, duyên dáng của cô dâu về nhà chồng.
- Về đến nhà chồng, nhìn thấy“ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, thị “nén một tiếng thở dài”. Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả những lo toan và trách nhiệm của thị về gia cảnh nhà chồng. Đó phải chăng là thị đã ý thức được trách của mình đối với việc cùng chồng chung tay gây dựng gia đình. Tấm lòng của thị thật đáng quý biết bao.
- Vào trong nhà, thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường (“Ngồi mớm” – thế ngồi bấp bênh, không ổn định nhưng cũng rất ý tứ). Thị ý tứ, cung kính, lễ phép chào bà cụ Tứ (chào đến hai lần). Đây là hình ảnh đẹp của người con dâu rất mực thước trong quan hệ với mẹ chồng. Khi Tràng thưa chuyện với mẹ, thị chỉ biết “đứng vân vê tà áo đã rách bợt”.
- Khát vọng sống ở thị còn thể hiện qua các hành động:
+ Thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa. Sự thay đổi ấy người đọc cũng dễ nhận ra: nếu hôm qua thị chua ngoa, đanh đá, chỏng lỏn bao nhiêu thì hôm nay thị lại hiền lành bấy nhiêu.: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”.
+ Trong bữa cơm đầu tiên tại gia đình chồng, dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng thị vẫn vui vẻ, bằng lòng, chấp nhận cuộc sống nghèo khổ trước mắt.
=> Ban đầu thị theo Tràng về là vì cùng đường mà đánh mất tự trọng, trở nên liều lĩnh nhung đến đây ta đã thấy sự thay đổi tính cách của nhân vật. Đằng sau vẻ ngoài xấu xí, rách rưới, những hành động sỗ sàng, trơ trẽn, sau cái vẻ ngoài chao chát, chỏng lỏn là một con người giàu lòng ham sống.
3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật: (0,5 điểm)
- Xây dựng nhân vật người vợ nhặt, nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống truyện độc đáo; diễn biến tâm lí được miêu tả chân thực, tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách nhân vật. Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, kịch tính…
III. ĐÁNH GIÁ: (1,0 điểm)
- Cả 2 ý kiến đều đúng nhưng chưa đủ. Chúng bổ sung cho nhau, làm hoàn thiện chân dung nhân vật vợ nhặt.
- Qua nhân vật thị, tác giả đã góp một tiếng nói tố cáo đanh thép tội ác của bọn thực dân Phát xít lúc bấy giờ đã đẩy con người đến mức cùng đường. Đồng thời, nhà văn còn muốn gửi đến người đọc thông điệp về khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của con người.