Bạn thử tham khảo bài này nhé:
Những công trình nghiên cứu về tính văn chương của bản Tuyên ngôn độc lập mà chúng ta đã tiến hành thời gian qua chủ yếu vẫn dừng lại ở việc phân tích khả năng lập luận, kĩ năng sử dụng ngôn từ và thủ pháp trích dẫn hai đoạn tuyên ngôn của Pháp và Mỹ ở phần mở đầu. Tôi quan niệm rằng, trong tính bản thể của nó, Tuyên ngôn độc lập mang tính nghệ thuật sâu sắc bởi nó được viết nên từ trong tinh thần đối thoại.
Đầu tiên, cần xem mỗi tác phẩm văn chương là một cuộc hồi đáp bất tận, do vậy, nó phải có người nói và người nghe nằm hàm ẩn ngay trong văn bản. Xét từ góc độ người nói hay tác giả hàm ẩn, ta có thể thấy bản Tuyên ngôn độc lập là một tập thể người nói ở nhiều cấp độ khác nhau. Người nói đầu tiên đó là Hồ Chí Minh - tác giả thực tế của bản tuyên ngôn độc lập, là người trực tiếp chấp bút viết nên và cũng tự mình đọc trước quốc dân đồng bào tại quảng trường Ba Đình. Trong quá trình diễn thuyết bản Tuyên ngôn, có một chi tiết không nằm trong văn bản, nhưng đã được đi vào trong sử sách như một minh chứng hùng hồn của sự gần gũi giữa lãnh tụ (người nói) và quần chúng nhân dân (người nghe), đó là thời điểm khi đang đọc bản Tuyên ngôn thì Chủ tịch Hồ Chí Minh dừng lại và hỏi ân cần: “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?”. Tuy nhiên, ở đây, người nói không đơn giản thuần túy chỉ là Chủ tịch Hồ Chí Minh, mà đại từ nhân xưng của người nói là “chúng ta” hoặc “chúng tôi”, tức thuộc về ngôi thứ nhất, số nhiều. Phân tích “chúng ta” và “chúng tôi”, sẽ hiểu thêm hai chủ thể người nói khác nhau. Đầu tiên, đại từ “chúng ta” hoặc “ta” đó chính là nhân dân/dân tộc Việt Nam nói chung, bởi vì trong Tuyên ngôn có nhiều đoạn Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ phạm trù đại từ này chính là “đồng bào ta”, “dân ta”, “nước ta”... Đại từ này được sử dụng rất phổ biến trong đoạn đầu của bản Tuyên ngôn, nhằm chỉ những tội ác mà nhân dân ta phải gánh chịu do thực dân Pháp gây ra. Phạm trù đồng bào hay nhân dân này được Chủ tịch Hồ Chí Minh cụ thể hóa và nhấn mạnh bao gồm: “dân cày”, “dân buôn”, “nhà tư sản” và “công nhân”. Như vậy, ngay từ đầu cuộc cách mạng giành và bảo vệ độc lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho thấy cái nhìn chiến lược, thực tiễn khi xếp những “dân buôn” và “nhà tư sản” (tư sản và tiểu tư sản) cũng là những lực lượng cách mạng tiềm năng chịu nhiều bất công, bóc lột, bên cạnh hai lực lượng cách mạng truyền thống là “dân cày” (nông dân) và “công nhân”. Cần chú ý Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng lực lượng tư sản và tiểu tư sản, khi dùng từ “nhà tư sản” (YT nhấn mạnh), đây là vấn đề mà không phải giai đoạn lịch sử nào chúng ta cũng nhận thức đầy đủ viễn kiến của Hồ Chủ tịch, mặc dù ngày nay thực tiễn xây dựng và đổi mới đất nước đã cho thấy sự đúng đắn của nó.
Thứ hai, “chúng tôi” ở đây chính là hai thực thể người nói cụ thể khác mà ta cần nhận ra đó là “Việt Minh” và “Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”. Ở đoạn cuối của bản Tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi rõ: “Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng…”. Nhưng ở đoạn giữa của bản Tuyên ngôn, trong đoạn tố cáo sự đê hèn của thực dân Pháp khi hèn nhát từ chối liên minh chống Nhật, hay tội ác giết số đông tù chính trị ở Yên Bái, Cao Bằng, người đọc có thể hiểu chúng tôi còn là lực lượng Việt Minh. Thực ra Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Việt Minh chỉ là một lực lượng mà thôi, tuy nhiên, Chính phủ Lâm thời thể hiện sự ra đời của một bộ máy chính trị cầm quyền hoàn chỉnh, đại diện chính thức và hợp pháp về mặt tổ chức để lãnh đạo đất nước non trẻ, thể hiện cho sự trưởng thành và tính hợp hiến, tự giác của cách mạng.
Tập hợp chỉnh thể bốn thành phần người nói ấy không phải tạo ra chỉ để thể hiện cho số đông, sự trùng điệp của chủ thể người nói, mà thực ra nó là một thủ pháp tự sự quan trọng mang những giá trị thẩm mỹ, tư tưởng cụ thể trong mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với chỉnh thể người nghe/đọc. Cấu trúc của người nghe/đọc hàm ẩn cũng là một tập hợp bao gồm bốn thành phần mà chúng ta sẽ lần lượt xét đến như sau. Thứ nhất, ứng với chủ thể người nói là cá nhân Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì người nghe cụ thể, thực tế ban đầu sẽ là quốc dân đồng bào có mặt tại quảng trường Ba Đình vào ngày 2/9/1945. Bản Tuyên ngôn độc lập trước hết được viết/đọc là dành cho toàn thể nhân dân Việt Nam. Như vậy, hàng loạt đại từ nhân xưng như “nòi giống ta”, “đồng bào ta”, “dân ta”… vừa là ngôi thứ nhất, nhưng cũng đồng thời là ngôi thứ hai trong trường đối thoại. Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng ngôi thứ nhất số nhiều trong đối thoại nhằm thể hiện tính đoàn kết, gần gũi không thể tách rời với nhân dân.