Đáp án đúng:
Phương pháp giải:
Vận dụng những kiến thức đã học về tác phẩm Người lái đò Sông Đà.
Vận dụng kỹ năng viết bài văn nghị luận văn học dạng phân tích đoạn trích văn xuôi.Giải chi tiết:1) Giới thiệu đoạn trích
Đoạn trích thuộc phần cuối của bài tuỳ bút. Ngòi bút Nguyễn Tuân đã tung phá với những trang văn vô cùng đặc sắc miêu tả sông Đà hung bạo, đến đây lại dịu dàng, trầm lắng và lai láng chất thơ khi đặc biệt rung cảm trước vẻ đẹp trữ tình của dòng sông từ điểm nhìn của một du khách đi thuyền trên sông.
Lúc hung bạo, con sông “mang diện mạo và tâm địa của một thứ kẻ thù số một” của con người. Lúc trữ tình, dòng chảy ấy lại tràn đầy, sóng sánh chất thơ, là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa- là một “mĩ nhân”, thân thiết với con người như một “cố nhân”, và đến đây, thậm chí đã trở thành một “tình nhân”, xa thì nhớ nhung lưu luyến.
2) Cảm nhận về vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà
a) Từ điểm nhìn của một du khách hải hồ trên sông Đà, nhà văn đã cảm nhận những vẻ đẹp hết sức đa dạng và nên thơ của cảnh vật ven sông quãng dưới hạ lưu êm đềm
* Đó là vẻ đẹp tĩnh lặng, yên ả, thanh bình như còn lưu lại dấu tích của lịch sử cha ông “cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”.
- Chữ dùng “lặng tờ” được lặp lại đến 2 lần đã nhấn mạnh sự im vắng đến tuyệt đối. Và để người đọc có thể hình dung được, tác giả đã ngược dòng lịch sử, về với quá khứ của cha ông từ hàng chục thế kỉ trước để tạo nên phép so sánh bất ngờ. Ở nơi đây, hiện tại hôm nay và quá khứ xa xưa không hề có sự đổi thay, vẫn là sự vắng vẻ và tĩnh lặng trải dài đến hàng nghìn năm.
- Vắng vẻ đến mức “tịnh không một bóng người”. Dấu hiệu của sự sống con người không hề xuất hiện nơi đây.
- Và tĩnh lặng đến mức tác giả “thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ- Yên Bái- Lai Châu”
. Từ “thèm” đã diễn tả được niềm khát khao đến cháy bỏng của nhà văn. Ở đây NT có sự gặp gỡ với niềm mong mỏi của chị em Liên, An trong tác phẩm “Hai đứa trẻ”- Thạch Lam.
-> niềm khao khát thứ âm thanh chói gắt ấy chỉ xuất hiện khi người ta ở trong không gian đặc quánh của sự tĩnh vắng.
. Dường như đây không chỉ là niềm khao khát của nhà văn, bởi “Hươu vểnh tai nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?””
. Thứ âm thanh mà tác giả muốn được nghe là tiếng còi xúp lê của chuyến xe lửa đầu tiên đến với mảnh đất này- phải chăng ẩn ý đằng sau đó là niềm khao khát đổi thay cho Tây Bắc, phát triển giao thông cũng là cơ sở để phát triển kinh tế và khai mở văn hóa.
+ Sự tĩnh lặng còn được đẩy lên đến cao trào, tĩnh lặng đến mức “tiếng cá đập nước sông” “đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông” cũng đủ sức làm giật mình, thảng thốt cả thiên nhiên “đuổi mất đàn hươu vụt biến”. Những âm thanh nhỏ bé dễ dàng bị chìm khuất trong cuộc sống hối hả náo nhiệt đời thường lại trở thành chủ đạo ở nơi này, thậm chí còn làm kinh động cả một vùng rộng lớn. Tác giả đã rất thành công trong việc sử dụng bút pháp lấy động tả tĩnh của các nhà thơ xưa.
- Đặc biệt gây ấn tượng là hình ảnh “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi”. Sự liên tưởng của nhà văn “bụng trắng như bạc rơi thoi” vừa chân thực vừa gợi ra sự trù phú và giàu có của mảnh đất Tây Bắc. Hình ảnh so sánh đã gợi nhớ lại những câu thơ của Huy Cận:
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng. Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông
* Đó là vẻ đẹp tươi mới, tràn trề nhựa sống, như bắt đầu một mùa nảy lộc sinh sôi “nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, “cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”, và “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”
+ Động từ “nhú lên” với những hình ảnh lá ngô non, nõn búp cỏ gianh gợi ra một nguồn nhựa sống tích tụ từ trong lòng đất đang trào ra, tươi non mỡ màng
+ Nếu cỏ gianh là hình ảnh của thiên nhiên thuần khiết, thì nương ngô lại có sự tác động của bàn tay con người. Phải chăng hình ảnh lá ngô non đầu mùa đang nhú lên cũng là những hi vọng được gieo trồng về sự phát triển của vùng đất mới trong những năm tháng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc?
* Đó còn là vẻ đẹp hoang sơ, cổ kính “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”
- Tác giả dùng 2 hình ảnh so sánh liên tiếp, bờ sông giống như bờ tiền sử, giống như thế giới cổ tích, giống ở sự hoang dại và hồn nhiên, bởi hầu như không có sự tác động của con người và cuộc sống hiện đại
-> Lối so sánh đặc biệt của nhà văn khiến dòng sông hiện lên vừa gần lại vừa xa, vừa thực lại vừa ảo. Đó là một cõi nguyên sơ chỉ có cái đẹp tồn tại.
- Chính vì nguyên sơ mà khi “tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò”, con hươu thơ ngộ- con vật lành có thể kinh động chỉ vì tiếng cá đập nước sông, nhưng lại “ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi” “nhìn tôi không chớp mắt”, chỉ thấy lạ lẫm mà không hề sợ hãi. Con người và thiên nhiên xích lại gần nhau trong một không gian quá đỗi thanh bình.
b) Cảnh đẹp quá nên đã gợi cảm hứng cho thi ca bao đời
- Vẻ đẹp ấy đã cùng với sông Đà chảy qua không gian, thời gian, và đặc biệt là chảy qua cả những áng thơ ca bao đời, thơ Nguyễn Quang Bích rồi Tản Đà… để trở thành bất tử.
- Trong cái nhìn của thi sĩ Tản Đà, Sông Đà đã trở thành “một người tình nhân chưa quen biết”:
Dải sông Đà bọt nước lênh bênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình
+ Gọi là tình nhân vì “dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”. Cái điệu chảy lững lờ ở quãng hạ lưu êm đềm, đi vào trang văn Nguyễn Tuân đã chở đầy cảm xúc nhớ thương. Nó giống như sự dùng dằng, lưu luyến của sông Hương không muốn rời xa kinh thành Huế trong sự liên tưởng của Hoàng Phủ Ngọc Tường “bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, … như những vấn vương của một nỗi lòng”.
+ Đặc biệt, Sông Đà lại là người tình nhân chưa quen biết vì thân thuộc lắm, nhưng cũng còn rất nhiều bí ẩn để mời gọi, khám phá và đầy sức hấp dẫn.
-> Cái mới lạ của Sông Đà ở quãng sông này trong quan sát tinh tế của nhà văn là đang hòa nhập, thích nghi dần với không gian và địa hình mới mẻ:
. dòng sông như “đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi”
. “và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên” bởi đã đi qua hết những thác ghềnh hiểm nguy
3) Đánh giá chung
a) Đặc sắc nghệ thuật
Đoạn văn giống như 1 đoạn thơ trữ tình:
+ Những câu văn dài dùng nhiều thanh bằng, cấu trúc câu trùng điệp, nhịp văn chậm rãi, êm đềm. Những câu văn miêu tả vẻ đẹp trữ tình của dòng sông mang âm điệu êm ái, nhẹ nhàng đã góp phần khắc họa sự yên ả, mềm mại của Đà giang, có sức hấp dẫn đặc biệt đối với người đọc. Có những câu văn toàn thanh bằng “thuyền tôi trôi trên sông Đà” khiến người đọc như lạc vào một giấc mơ êm đềm và đẹp đẽ.
+ Giọng văn vừa trang trọng, trầm lắng, vừa da diết bâng khuâng tràn đầy xúc cảm
+ Ngôn ngữ chọn lọc, tinh tế và giàu tính gợi cảm
-> Đây là một trong những đoạn văn trữ tình hay nhất của tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà’'; là minh chứng cho tài năng nghệ thuật bậc thầy của Nguyễn Tuân. Đồng thời ghi dấu sự chuyển biến trong phong cách nghệ thuật của nhà văn sau Cách mạng tháng 8/1945
b) Giá trị nội dung tư tưởng
- Trong đoạn trích, nhà văn bộc lộ một tình yêu thiết tha với vẻ đẹp của sông nước quê hương: yêu đến độ không chỉ đắm mình trong không gian thơ mộng của con sông để cảm nhận từng vẻ đẹp mà còn giao cảm với sông để lắng nghe tiếng vọng trong lòng nó. Yêu không chỉ bằng sự gắn bó và xúc động với hiện tại mà còn yêu thương cả những khát khao về tương lai: mơ ước, hi vọng về một tương lai tốt đẹp cho vùng đất Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc.
- Miêu tả hình tượng sông Đà không phải chỉ để phô diễn tài năng, khẳng định sức mạnh của ngòi bút mà mục đích của Nguyễn Tuân còn là dùng cái tài để tô điểm, ngợi ca vẻ đẹp của núi sông gấm vóc, nên thơ từ đó thể hiện lòng yêu nước ở một người trí thức cách mạng.