I, Dàn ý tham khảo
1, Mở bài
- Giới thiệu tác giả: Xuân Diêu
+ Năm sinh - năm mất
+ Quê quán
+ Phong cách sáng tác
+ Tác phẩm tiêu biểu
- Giới thiệu tác phẩm: Vội vàng
+ Xuất xứ
+ Nội dung - Nghệ thuật
2, Thân bài
- Khổ 1:
+ Câu thơ ngắn, nhịp thơ nhanh liên tiếp các điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc, khổ thơ như khúc ca sôi nổi, say mê về những ước muốn khát khao cất lên từ trái tim của thi sĩ.
+ Muốn tắt nắng, muốn buộc gió để màu đừng nhạt, hương đừng phai, nghĩa là Xuân Diệu muốn níu giữ mãi hương thơm sắc thắm, muốn bất tử hóa vẻ đẹp mùa xuân nơi trần thế.
- Khổ 2: Bằng một niềm yêu đời mãnh liệt, bằng cặp mắt xanh non biếc rờn, ngơ ngác và đầy vui sướng, Xuân Diệu đã phát hiện ra bao vẻ đẹp đáng yêu, đáng say đắm của thiên nhiên và cuộc sống con người nơi trần thế mà đẹp nhất, vui nhất, lộng lẫy nhất chính là mùa xuân và tuổi trẻ
- Khổ 3:
+ Câu thơ gãy đôi, nửa bên này tươi vui, nửa bên kia vội vàng, nuối tiếc.
+ Nhà thơ không đợi mùa hạ tới mới nuối tiếc mùa xuân, mà nuối tiếc mùa xuân khi còn đang đắm mình trong nó.
=> Bởi vì cuộc đời đẹp quá, hấp dẫn quá nhưng thời gian vẫn cứ trôi – tâm trạng nhạy cảm của thi nhân bỗng như cảm nhận mùa xuân sẽ qua đi, không trở lại.
3, Kết bài
- Tình cảm của em dành cho tác phẩm
II, Bài văn tham khảo
Nhà thơ Thế Lữ đã từng có nhận xét khá tinh tế về Xuân Diệu: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”. Có thể nói, Xuân Diệu đã đem đến cho thơ ca Việt Nam một “bộ y phục tối tân”, táo bạo, một “cảm hứng dạt dào chưa từng có ở chốn nước non lặng lẽ này”. Cứ mỗi độ xuân về, trái tim non của những thế hệ trẻ lại rung lên với cảm xúc yêu đời tha thiết, mãnh liệt trước lời ru yêu đời mà thấm thía của Xuân Diệu. Một trong những lời ru yêu đời thấm thía ấy được gửi gắm qua tác phẩm “Vội vàng”. Cả bài thơ là niềm yêu đời mãnh liệt, lòng ham sống đến bồng bột, cuồng nhiệt.
“Vội vàng” được trích trong tập “Thơ thơ”. Nhan đề này đã thể hiện rất rõ nét đầy đủ tâm thế, triết lý sống quen thuộc của nhà thơ XD trước cách mạng T8: sống là vội vàng, cuống quýt, gấp gáp. “Vội vàng” được coi là bài thơ tâm tình của mùa xuân của trái tim tuổi 20 căng tràn nhựa sống.
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Câu thơ ngắn, nhịp thơ nhanh liên tiếp các điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc, khổ thơ như khúc ca sôi nổi, say mê về những ước muốn khát khao cất lên từ trái tim của thi sĩ. Muốn tắt nắng, muốn buộc gió để màu đừng nhạt, hương đừng phai, nghĩa là Xuân Diệu muốn níu giữ mãi hương thơm sắc thắm, muốn bất tử hóa vẻ đẹp mùa xuân nơi trần thế. Nghĩa là Xuân Diệu muốn mãi mãi một mùa xuân tuyệt vời. Ham muốn, khát vọng của thi sĩ thật vô cùng lãng mạn. Phải là một hồn thơ yêu đời ham sống mãnh liệt đến vô bờ mới có những ham muốn bồng bột, táo bạo ấy.
Bằng một niềm yêu đời mãnh liệt, bằng cặp mắt xanh non biếc rờn, ngơ ngác và đầy vui sướng, Xuân Diệu đã phát hiện ra bao vẻ đẹp đáng yêu, đáng say đắm của thiên nhiên và cuộc sống con người nơi trần thế mà đẹp nhất, vui nhất, lộng lẫy nhất chính là mùa xuân và tuổi trẻ:
“Của ong bướm…hoài xuân”.
Mùa xuân hiện lên trong thơ Xuân Diệu với một vẻ đẹp mới lạ, diệu kì. Đã có biết bao thi sĩ đã từng viết những trang tuyệt bút về mùa xuân nhưng đứng trước mùa xuân của Xuân Diệu, người đọc cũng phải bàng hoàng, sững sờ trước vẻ đẹp tuyệt diệu của nó. Những câu thơ kéo dài, mở rộng như trải ra một bức tranh xuân đẹp đẽ. Nhịp thơ nhanh hơn, rộn ràng hơn. Điệp từ “này đây” lặp đi lặp lại vừa như phô bày vẻ đẹp muôn màu muôn sắc, vừa như mời gọi lòng người hãy quan sát, thưởng thức vẻ đẹp phong phú ấy. Những hình ảnh thơ đẹp đẽ, sống động lần lượt tuôn trào dưới ngòi bút thi nhân: “đồng nội xanh rì”, “cành tơ phơ phất”, tiếp đó là “ong bướm”, “hoa”, “lá”, “yến anh”… hiện lên trước mắt người đọc cả một thế giới tràn đầy xuân sắc. Mùa xuân là mùa ong bướm dập dìu say mật ngọt, hoa nở trên đồng nội, lá non tơ phơ phất trên cành, chim chóc hót những khúc ca hay nhất… Sự vật đang ở vào độ non tơ nhất, căng tràn nhựa sống nhất. Thiên nhiên như một kho báu giàu có sẵn sàng dâng hiến, ban tặng cho con người.
Đặc biệt hơn khi những cảnh vật ấy, cuộc sống ấy được nhà thơ gợi tả và hình dung trong tâm trạng của kẻ đang yêu. Cụm từ “tuần tháng mật” gợi nên những tháng ngày hạnh phúc tràn trề của lứa đôi. Hai chữ “yến anh” là hình ảnh chim yến và chim oanh – con trống con mái luôn quấn quýt bên nhau gợi sự thắm thiết trong tình cảm đôi lứa, tình cảm vợ chồng. Cách nói “khúc tình si” không chỉ nói về những khúc hót hay nhất của chim chóc mà còn gợi nên âm hưởng đắm say, si mê của tình yêu lứa đôi.
Nếu đặt bài thơ này vào giữa thời điểm sáng tác nó, người đọc sẽ nhận thấy rất rõ sự khác biệt. Trong phong trào Thơ mới lúc này hầu hết là những vần thơ mang âm hưởng trĩu buồn, bộc lộ tâm trạng của cái tôi cá nhân nhà thơ. Nhà thơ Thế Lữ đã từng có lúc muốn trốn vào tiên giới. Nhà thơ Chế Lan Viên thì muốn đêm lá vàng hoa rụng của mùa thu trước để chắn nẻo xuân sang:
“Tôi có chờ đâu, có đợi đâu
Đem chi xuân lại gợi thêm sầu
Với tôi tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau”
Với bài thơ này, Xuân Diệu lại có một thái độ khác hẳn: nhà thơ thiết tha với cuộc đời, ràng buộc với cuộc đời bằng những sợi dây tình cảm mãnh liệt. Có một quan niệm sống tích cực đang ẩn giấu sau những lời miêu tả thiên nhiên sống động ấy.
Niềm vui sống hân hoan khiến Xuân Diệu nhìn cuộc đời thấy rất đẹp, rất vui:
“Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Thật độc đáo và mới mẻ khi nhà thơ cảm nhận ánh sáng của buổi bình minh tỏa ra từ cặp mắt đẹp của người thiếu nữ khi nàng chớp chớp hàng mi diễm lệ, mỗi một ngày mới đến lại giống như có thần Vui gõ cửa ngôi nhà của chúng ta. Sự cảm nhận rất trẻ trung và yêu đời! Trong tập “Trường ca”, Xuân Diệu cũng đã từng có những cảm nhận như thế:
“Mi của ánh sáng thật dài, tia của ánh sáng thật đượm
Ánh sáng ở một chỗ mà ở khắp mọi nơi, con mắt điện quang thấu suốt muôn trùng”
Đặc sắc nhất là hình ảnh thơ: “Tháng giêng ngon như một gặp môi gần”. Hình ảnh thơ rất táo bạo, trẻ trung mang phong cách riêng của Xuân Diệu. Nhà thơ dùng hình ảnh cụ thể của con người – “cặp môi gần” để so sánh với đơn vị thời gian trừu tượng là tháng giêng, gợi sự liên tưởng kì diệu, mạnh mẽ về vẻ đẹp trẻ trung, sống động, đầy sức quyến rũ của mùa xuân. Hỗ trợ vào đó là nghệ thuật chuyển đổi cảm giác. Mùa xuân không chỉ đẹp mà nhà thơ còn cảm nhận được hương vị của nó qua từ “ngon”. Một câu thơ rất gợi cảm và độc đáo, khiến người đọc cảm nhận một cách toàn vẹn bằng mọi giác quan vẻ đẹp và sức hấp dẫn của mùa xuân. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đây là một trong những câu thơ hay nhất, độc đáo và táo bạo nhất của Xuân Diệu trước Cách mạng.
Mạch thơ đang háo hức mê say bỗng như lắng lại:
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
Câu thơ trên gãy đôi, nửa bên này tươi vui, nửa bên kia vội vàng, nuối tiếc. Nhà thơ không đợi mùa hạ tới mới nuối tiếc mùa xuân, mà nuối tiếc mùa xuân khi còn đang đắm mình trong nó. Bởi vì cuộc đời đẹp quá, hấp dẫn quá nhưng thời gian vẫn cứ trôi – tâm trạng nhạy cảm của thi nhân bỗng như cảm nhận mùa xuân sẽ qua đi, không trở lại.
Xuân Diệu đã khắc họa một thế giới cảnh sắc thật diệu kì của mùa xuân thông qua một hệ thống ngôn ngữ biểu cảm và giàu sức gợi, thông ưua những biện pháp so sánh, ẩn dụ, chuyển đổi cảm giác thật đặc sắc. Vẫn là những điều bình dị quanh ta nhưng đôi mắt nhà thơ đã phát hiện ra biết bao điều đáng yêu, đáng ống. Với niềm xúc cảm mãnh liệt, giọng thơ dạt dào sôi nổi, thi sĩ tuyền đến cho người đọc nguyên vẹn tình yêu cuộc sống trần thế này chứ không phải nơi thần tiên nào khác.