Chất cổ điển
Đề tài sông nước: Đây là đề tài quen thuộc của thi sĩ muôn đời, đặc biệt là thơ cổ
Nhan đề Tràng giang: Tràng giang là từ Hán Việt è sắc thái trang trọng, cổ kính è phảng phất phong vị Đường thi.
Tứ thơ: Mượn không gian hùng vĩ, đượm buồn khi chiều xuống, nhà thơ gửi gắm tâm sự của mình. Không gian càng mênh mông, rợn ngợp, con người càng nhỏ bé, cô đơn, kiếp người lênh đên giữa dòng đời không biết đi đâu về đâu. Đây là tứ thơ quen thuộc trong thơ cổ.
Thể thơ: Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn: có khả năng bày tỏ suy tư, cảm xúc mênh mang của con người.
Tác giả vận dụng tự nhiên, nhuần nhuyễn lối đối hài hòa của thơ cổ.
Hình ảnh thơ chia thành hai hệ thống đối lập: một bên là thiên nhiên rộng lớn cao rộng, một bên là kiếp người bé nhỏ, cô đơn.
Bút pháp: Bút pháp họa vân hiển nguyệt của Đường thi: lấy động tả tĩnh, lấy cái vô hạn để tả cái hữu hạn, lấy cái mênh mông rợn ngợp để tải cái bé nhỏ mong manh...
Chất hiện đại trong thơ:
Cách thể hiện trực tiếp cái tôi lãng mạn trước cuộc đời:
Mỗi khổ thơ là một nỗi niềm của cái tôi cô đơn trước đất trời:
Khổ 1: Cái rùng mình của thân phận trôi dạt trăm ngả trước lớp lớp sóng dồn.
Khổ 2: Nỗi ngậm ngùi trước sự sống nhỏ nhoi, mong manh trong âm t hanh của tiếng chợ chiều thưa thớt.
Nỗi buồn đặc trưng của Thơ mới:
Đây là nỗi buồn có nguyên cớ từ đặc điểm tâm hồn, đời sống xã hội bấy giờ. Đó là nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn thời cuộc. Nỗi buồn tất yếu khi nhà thơ đa sầu đa cảm ý thức được thân phận và cảnh ngộ của đất nước.
Bức tranh thiên nhiên được quan sát dưới lăng kính cảm hứng vũ trụ:
Nếu cảm xúc trong bài thơ là cảm xúc của một cái tôi lãng mạn thì cảnh trong bài thơ được nhìn qua một tâm hồn lãng mạn với cảm quan vũ trụ độc đáo.
Không gian mở rộng dưới mọi chiều kích (điệp điệp, song song), (nắng xuống, trời lên, sâu chót vót/ Sông dài, trời rộng, bến cô liêu)
Trong bài thơ, hoàng hôn không chỉ có buồn mà lấp lánh sắc màu.......Một chữ "đùn" cho thấy được sự vận động của thiên nhiên với nội lực tiềm tàng mãnh liệt.