Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, Nguyễn Trãi là một nhân vật kiệt xuất. Ông không những là một nhà chính trị, nhà quân sự, tài ba mà còn là một cây bút xuất sắc với nhiều tác phẩm sống mãi với thời gian: Bình Ngô đại cáo, Dư địa chí, Quân trung từ mệnh tập,... Có thể thấy, dù sáng tác theo thể loại nào thì bao trùm lên tất cả các tác phẩm của ông vẫn là tinh thần yêu nước, thương dân. “Bình Ngô đại cáo”
Bản “thiên cổ hùng văn” – Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi được coi như một “bản tuyên ngôn độc lập thứ hai” của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh giá trị về tư tưởng nhân nghĩa và tinh thần nhân đạo, bài cáo còn thể hiện tinh thần yêu nước sâu sắc của tác giả nói riêng và của toàn thể nhân dân ta nói chung.
Trước hết trong tinh thần yêu nước, tác giả không quên nhắc tới tư tưởng nhân nghĩa của nhân dân ta:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Theo ông, yêu nước thương dân trước hết phải trừ bạo, muốn cho dân có một cuộc sống ấm no, yên ổn và hạnh phúc thì phải tiêu diệt kẻ thù của nhân dân, diệt trừ những kẻ hung bạo đày đọa và làm khổ nhân dân. Đất nước có được độc lập và yên bình thì cuộc sống của nhân dân mới mong ấm no, hạnh phúc. Quân giặc giày xéo lên đất nước, không gì khác chính là giày xéo lên người dân, đày đọa và cướp đi cuộc sống của nhân dân.
Lo cho nước nhà ắt phải lo cho dân, yêu nước tức là yêu dân, thương nước cũng là thương dân, nước với dân phải là một. Trị vì đất nước phải lấy dân làm đầu, tất cả vì dân nhân. Một đất nước phải có dân, và dân phải có đất nước. Trong bài cáo này, tác giả Nguyễn Trãi đã nêu lên tư tưởng nhân nghĩa không chỉ là một phạm trù đạo đức nữa mà trở thành một chân lí, hay một đường lối chính trị lấy dân làm gốc. Tư tưởng nhân nghĩa và yêu nước phải gắn liền với đấu tranh xâm lược:
“Như nước Đại Việt ta từ trước…
Song hào kiệt đời nào cũng có”.
Ở “Bình Ngô đại cáo”, yêu nước trước hết thể hiện ở lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Mở đầu tác phẩm, tác giả trịnh trọng tuyên bố sự tồn tại song song, bình đẳng của các triều đại của Đại Việt với các triều đại của Đại Hán:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có.”
Nền văn hiến Đại Việt, nền “văn hoá Thăng Long” được hình thành, xây dựng và phát triển qua một quá trình lịch sử đằng đẵng mây nghìn năm. Đại Việt không chỉ có lãnh thổ chủ quyền "núi sông bờ cõi ", mà còn có thuần phong mĩ tục mang bản sắc riêng, có lịch sử riêng, chế độ riêng. Nếu như bốn trăm năm về trước, trong "Nam Quốc sơn hà”, Lý Thường Kiệt chỉ mới xác định được hai nhân tố về lãnh thổ và chủ quyền trên ý thức quốc gia và lập trường dân tộc, thì trong “Bình Ngô đại cáo” , Nguyễn Trãi đã bổ sung thêm bốn nhân tố nữa, đó là: văn hiến, phong tục, lịch sử và nhân tài. Điều đó cho thấy ý thức dân tộc của nhân dân ta đã phát triển trên một tầm cao mới trong thế kỉ 15, đó cũng là tinh anh, tinh hoa của tư tưởng Nguyễn Trãi, phải thật sự là một con người có tâm với nước với dân thì mới có thể viết nên những trang sử hào hùng như vậy.
Trong những ngày đất nước bị xâm lược, tinh thần yêu nước được bộc lộ qua lòng căm thù giặc sâu sắc. Nguyễn Trãi đã vạch trần những tội ác dã man của giặc Minh đối với nhân dân ta:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời, lừa dân, đủ muôn nghìn kế,
Tây binh, kết oán, trải hai mươi năm”
Yêu nước thương dân,Nguyễn Trãi thông cảm và chia sẻ những nỗi khổ đau của nhân dân ta gánh chịu trong chiến tranh. Qua tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” ông đã tố cáo bao tội ác chồng chất của giặc Minh trong suốt một thời gian dài hơn hai mươi năm "dối trời lừa dân, đủ muôn nghìn kế”.
Đau xót trước cảnh nước mất, nhà tan ông ngày đêm trăn trở lo chuẩn bị cho công cuộc cứu nước. Những dòng sau đây ông viết về Lê Lợi nhưng cũng là diễn tả tâm trạng của mình:
“Đau lòng, nhức óc chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật, nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kĩ.”
Cảm hứng yêu nước còn bộc lộ qua giọng điệu tự hào, ngợi ca khi nhắc đến sức mạnh quật cường của dân tộc trong cuộc kháng chiến chông quân Minh. Nguyễn Trãi, bằng những câu văn đầy hình tượng, cuồn cuộn khí thế chiến thắng đã ca ngợi những chiến công oanh liệt của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo tài ba của chủ tướng Lê Lợi:
“Trận Bồ Đằng sấm vang, chớp giật
Miền Trà Lân trúc chẻ, tro bay ...
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn.
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông
Cơn gió to trút sạch lá khô
Tổ kiến hỏng sụt toang đê vỡ.”
Tuy gặp khó khăn, thất bại lúc ban đầu nhưng nhờ có tinh thần quyết tâm chiến đấu, “Gắng chí khắc phục giang nan”, được nhân dân khắp nơi ủng hộ, tướng sĩ trên dưới một lòng, nghĩa quân Lam Sơn càng đánh càng thắngvang dội, không có sức mạnh nào có thể ngăn được. Chỉ trong vòng mười ngày mà nghĩa binh đã làm nên những kì tích anh hùng chưa từng có:
“Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm nhăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẩn”.
Cái hào khí ngất trời của nghĩa quân được thể hiện qua những hình ảnh, từ ngữ sinh động, cụ thể đầy gợi tả. Chưa bao giờ cái hào khí dân tộc lại dâng cao như lúc này.