Câu 1:
Có đôi lúc bạn sẽ cảm thấy bản thân mình thật vô dụng, những lúc như thế hãy tự nhủ rằng “chắc chắn mỗi người trong chúng ta đều được sinh ra với những giá trị sẵn có sẵn và chính bạn hơn ai hết, trước ai hết phải hết mình phải nhận ra những giá trị đó”, “giá trị có sẵn” là những giá trị bản thân vốn có và để nhận ra nó. Con người cần phải kiên nhẫn từng ngày, từng giờ, nỗ lực làm việc, học tập, chúng ta có thể không thông minh nhưng chúng ta có sự chuyên cần để bù đắp. Có thể chúng ta là người không hát hay, nhưng đổi lại chúng ta là người không bao giờ trễ hẹn. Cuộc sống là vậy luôn rất công bằng, bạn có thể không có những khả năng đặc biệt. Những năng khiếu trời phú, những ẩn sâu bên trong bạn là những giá trị tốt đẹp và trước ai hết bạn phải sớm nhận ra nó để có thể phát huy thật tốt những điểm mạnh của mình.Nguyễn Ngọc Ký Nhà giáo ưu tú của Việt Nam, dù bị liệt hai tay nhưng nhận ra rằng đôi chân mình cũng có thể viết được thầy, đã cố gắng nỗ lực rất nhiều và bằng sự thông minh cùng nỗ lực thầy đã trở nên nổi tiếng và được nhiều người biết đến. Tuy nhiên trong thực tế, không phải ai cũng có thể nhận ra những giá trị sẵn có của bản thân, những người chỉ biết than thân trách mình vô dụng mà không biết tìm kiếm những giá trị sẵn có. Nhiều người lại cảm thấy xấu hổ với những giá trị của mình không bằng người khác, mỗi người trong chúng ta hãy phê phán những người có những suy nghĩ tiêu cực sai lầm trên, hãy cố gắng tìm ra những giá trị vốn có của mình để tự tin làm những điều mình muốn.Là học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta hãy cố gắng học tập, phát huy thật tốt những giá trị của bản thân và những công việc trong cuộc sống hàng ngày.
Câu 2:
Nhà thơ Thế Lữ, được biết đến là một nhà thơ tiêu biểu nhất trong phong trào Thơ mới buổi đầu. Thơ của Thế Lữ được nhận xét là một hồn thơ dồi dào và đầy trong nó sự lãng mạn. Đến với bài thơ “Nhớ rừng” của ông, bạn đọc thấu hiểu được một tình yêu nước sâu sắc, qua hình tượng “con hổ”, tác giả đã mượn nó để nói đển sự chán ghét thực tại tầm thường, và gửi gắm trong đó tình yêu dân tộc thầm kín. Có thể nói, hình ảnh con hổ trong bài thơ là một sáng tạo đặc biệt, mà qua nó, tác giả đã gửi gắm được những tâm sự thầm kín, mang đầy tính nhân văn.
Mở đầu bài thơ, hình ảnh một con hổ hiện ta với sự kìm kẹp, tù hãm, bởi nó vốn xuất phát điểm là chúa tể muôn loài, mà giờ đây lại đang bị giam hãm trong một khối sắt lạnh lẽo, mà trong con hổ đang dâng tràn một sự căm hờn chẳng nguôi ngoai:
“Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua”
“Cũi sắt” được nhắc đến, thể hiện sự giam cầm tự do, một không gian giam hãm nhỏ bé, bức bí, khiến con hổ “căm hờn”. Những ngày tháng trôi qua trong giam hãm, chúa sơn lâm mang trong mình sự uy nghiêm ngày nào giờ lại phải tồn tại trong một không gian nhỏ hẹp, “sa cơ” lỡ vận. Con hổ mang trong mình bản chất của chúa sơn lâm, vốn quen vùng vẫy ở một không gian rừng thiêng rộng lớn, cho nên khi phải bị cảnh giam cầm, nó sống mà như chốn địa ngục, cảm giác “nhục nhằn” dâng cao, cảm thấy mình tầm thường khi bị đem ra làm trò chơi, làm thú mua vui cho những kẻ “Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm”.
Con hổ khi phải sống trong sự giam cầm tưởng như không lối thoát như vậy, nó vẫn luôn hướng về quá khứ oai hùng, đầy uy nghiêm. Đại từ nhân xưng “ta” được tác giả sử dụng ở lối xưng của con hổ, càng thể hiện rõ bản lĩnh, sự uy nghiêm, oai hùng của chúa sơn lâm một thời. Con hổ luôn nhớ về thời oanh liệt, vàng son của mình, đó là khi “tung hoành hống hách”, là khi những cảnh quen thuộc là “bóng cả, cây già”. Sự uy nghiêm ngày ấy thể hiện rõ qua những tiếng gầm thét núi, những tiếng gào dữ tợn vang xa đại ngàn. Con hổ nhớ về uy thế lẫm liệt của mình, chẳng xa lạ gì với cái tên mà người ta vẫn gọi về nó: chúa sơn lâm. Sự uy nghĩ ngày ấy còn toát lên cả ở những bước đi lẫm liệt, đường hoàng, tất cả mọi con vật đều phải nhún nhường, khiếp sợ. Hình ảnh quá khứ của con hổ hiện lên với bao nỗi nhớ chất chồng, vừa là thương nhớ, vừa là hoài niệm, về một thời oanh liệt, vẫy vùng.
Sự nuối tiếc về quá khứ vàng son luôn thường trực trong nỗi nhớ của con hổ, nhớ cả về núi rừng đại ngàn, nhớ cả về những đêm trăng, con hổ “say mồi đứng uống ánh trăng tan”. Một khung cảnh lãng mạn hiện lên: chúa sơn lâm sau một ngày no say những con mồi, đang cúi xuống uống dòng nước lấp lánh ánh trăng. Và cả những ngày tháng rừng mưa rả rích, cây cối như bừng tỉnh sau cơn mưa, con hổ-với ca ngợi là “chúa tể muôn loài”, cũng có những khoảng lặng, ngắm nhìn ‘giang sơn đổi mới”. Và cả những khung cảnh lãng mạn, tiếng chim hót líu lo đón ánh nắng, hình ảnh con hổ đôi mắt lim dim lặng im cảm nhận những hơi thở riêng của thiên nhiên, đất trời. Và, nỗi nhớ về cả những buổi hoàng hôn, mặt trời dần tắt, một khoảng không gian chuyển giao ngày và đêm, để con hổ tiếp tục một cuộc hành trình săn mồi đầy bí hiểm và say sưa. Tất cả ấy, gói gọn trong nỗi nhớ da diết của con hổ với rừng thiêng, với một nơi được gọi là nhà của chúa sơn lâm. Nhưng than ôi, những khung cảnh trong nỗi nhớ đó, giờ chỉ còn được gọi là “thời oanh liệt”, vì nó đã qua mất rồi, vì hiện thực quá đối lập với những gì của quá khứ gọi tên. Giờ đây, con hổ phải sống trong một không gian đầy sắp xếp tầm thường, giả dối:
“Ghét những cảnh không đời nào thay đổi
Những cảnh sửa sang,tầm thường, giả dối…”
Sự chán ghét thực tại của con hổ được thể hiện rõ ràng, chân thực. Dưới con mắt của chúa sơn lâm, cảnh suối, nước, hoa, cây, mô gò… được làm để giống với cảnh rừng thiêng đều mang sự giả dối, vì nó chỉ là sự sao chép sáo rỗng, đơn điệu, nhàm chán. Con hổ vẫn luôn đau đáu và nhớ về thời kì oai nghiêm của mình, vẫn là cảnh rừng thiêng “của ta”, như một sự khẳng định, như một sự sở hữu, thể hiện bản lĩnh và vị thế của một chúa sơn lâm, tuy đã bị sa cơ lỡ vận.
Mượn hình ảnh con hổ, nhà thơ Thế Lữ muốn gửi gắm nỗi chán ghét thực tại tầm thường, đơn điệu, đồng thời thể hiện niềm khao khát tự do mãnh liệt, qua đó, thể hiện một tấm lòng yêu nước thầm kín mà không kém phần sâu sắc.