Bài làm
NGUYỄN TRÃI VÀ ĐẠI CÁO BÌNH NGÔ
Nước Việt Nam ta từ lâu đã nổi tiếng thế giới với lịch sử dân tộc hào hùng với biết bao nhà quân sự nổi tiếng như Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Huệ, Võ Nguyên Giáp... Không chỉ đánh giặc giỏi mà người Việt Nam còn đóng góp cho nhân loại nhiều nhà tư tưởng, nhiều nhà văn hoá lớn tầm cỡ thế giới. Và người đầu tiên trong lịch sử thế giới cố gắng tìm kiếm và đã đưa ra được một định nghĩa dân tộc "tương đối có hệ thống và toàn diện" không ai hết đó chính là Nguyễn Trãi – một con người Việt Nam. Ngoài việc là một nhà quân sự, chính trị, một nhà ngoại giao tài ba lỗi lạc, ông còn là một nhà văn kiệt xuất, là người có công đầu trong việc phát triển nền văn hoá, văn học dân tộc. Và nếu như người ta lấy Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ là những dấu mốc đánh dấu chặng đường phát triển của chủ nghĩa yêu nước trong văn học thời kỳ trung đại thì phải đến Đại cáo bình ngô của Nguyễn Trãi, ý thức độc lập chủ quyền, quan hệ gắn bó giữa nước và dân, vấn đề nhân nghĩa mới thực sự phát triển rực rỡ.
Nguyễn Trãi (1380 – 1442), quê ở Hà Tây, là một tài năng lỗi lạc hiếm có. Đại cáo bình Ngô là bài cáo ông viết bằng chữ Hán vào mùa xuân năm 1428, thay lời Bình Định vương Lê Lợi để tuyên cáo kết thúc cuộc kháng chiến chống Minh, giành lại độc lập cho Đại Việt. Với Đại cáo bình Ngô, ông đã thật sự khai sáng cho nên văn học tiếng Việt. Bài Cáo có kết cấu gồm ba phần, viết bằng thể văn biền ngẫu, không những mang tính chính luận trang trọng mà còn có lập luận sắc bén, chặt chẽ, giàu sức thuyết phục. Chính vì vậy, tác phẩm được người đương thời, ngay cả hậu thế, đều rất thán phục và coi là “thiên cổ hùng văn”, là lời tổng kết đầy xúc động về cuộc kháng chiến anh dũng chống quân Minh xâm lược.
Nhân nghĩa là tư tưởng chủ đạo của Đại cáo bình Ngô, là mục tiêu chiến đấu vô cùng cao cả và thiêng liêng của cuộc khởi nghĩa. Mở đầu bài cáo cũng nói về tư tưởng nhân nghĩa. Quan niệm về dân tộc của ông đã vượt xa Nho giáo để tiếp cận đến những tri thức hoàn toàn mới. Nó được nâng lên thành lý tưởng cao cả mà suốt đời ông quyết tâm theo đuổi, đó là chiến đầu vì dân, vì yên dân mà phải quyết tâm trừ bạo. Rõ ràng, Nguyễn Trãi đã đem đạo đức của mình đặt vào giữa lòng chiến tranh. Ông khẳng định một chách khoan thai, chặt chẽ về tư cách độc lập, bình đẳng của dân tộc. Nước ta là một đất nước có nền văn hiến lâu đời, có lãnh thổ riêng, có phong tục tập quán riêng, cũng có hào kiệt và chế độ vua như bất kì một quốc gia độc lập tự chủ nào. Đọc áng văn trên, có thể thấy Nguyễn Trãi đã tiến một bước dài trong việc tìm kiếm khái niệm dân tộc, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh chống xâm lược. Quan niệm đó được hình thành trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, là cơ sở cho lý luận về dân tộc độc lập và quốc gia có chủ quyền. Nếu như ở Lý Thường Kiệt, quan niệm về chủ quyền của quốc gia còn khoác cái vỏ thần bí và trừu tượng của “sách trời” thì lập luận của Nguyễn Trãi trong bài nay lại càng thuyết phục hơn bởi ông nói có sách mách có chứng, tất cả những điều ông nói ở đây đều đã được chứng minh qua lịch sử. Những quan niệm của Nguyễn Trãi trong bài Cáo đều xuất phát từ chính thực tiễn kế thừa phát triển của truyền thống yêu nước, phù hợp với đạo đức truyền thống và hoàn cảnh lịch sử đương thời. Nguyên lý chính nghĩa, chân lý độc lập và chủ quyền của dân tộc đã được Nguyễn Trãi đúc kết ở đây, cũng như ông đã rút ra một điều rằng, không có gì có thể thay đổi lòng tự hào dân tộc.
Năm 1407,nhà minh sai Trương Phụ, Mộc Thạnh mang mấy chục vạn quân kéo sang xâm lược nước ta. Lúc đầu thì lấy cớ "phù Trần diệt Hồ",nhưng sau đó,chúng đã chia cắt đất nước ta thành quận, huyện, thi hành một chính sách cai trị vô cùng độc ác. Chính vì vậy, nối tiếp mạch thơ hùng hồn, Nguyễn Trãi đã viết nên “bản cáo trạng” về tội ác khủng khiếp của giặc Minh trong suốt 20 năm trên mảnh đất Đại Việt. Đằng sau những hành động dã man, mưu mô xảo quyệt, là bộ mặt ghê tỏm lũ ác ôn, bầy quỷ sứ phương Bắc đang hoành hành trên xương máu, nước mắt, trên tính mạng và tài sản nhân dân ta. Ông đã vạch trần âm mưu xâm lược của giặc một cách cô đọng và hàm súc qua sự kết hợp giữa những hình ảnh mang tính khái quát với những hình ảnh có tính cụ thể, sinh động. Giọng văn tuy rất tỉnh táo khi kể về tội ác của giặc, nhưng vẫn bộc lên cảm xúc đau nhói đến tận tâm can của một con người hết mực yêu nước thương dân. Đó còn là kết quả của sự suy ngẫm, của những phút giây thao thức, trăn trở "Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông", của những thể nghiệm, những mất mát lớn lao, thậm chí phải đổi bằng máu của biết bao “dân đen, con đỏ". Trước cảnh nước mất nhà tan, Nguyễn Trãi đã thoát khỏi tư tưởng trung hiếu nhỏ hẹp, đặt lòng yêu nước thương dân đó lên trên tất cả.
Ý thức dân tộc của nhân dân ta đã phát triển trên một tầm cao mới trong thế kỉ XV, và đó cũng là tinh anh, tinh hoa của tư tưởng Nguyễn Trãi. Cách kể tội, luận tội đặc sắc chỉ trong một số câu văn biền ngẫu linh hoạt nhưng đây thực sự là một bản án đanh thép, đẫm máu và nước mắt.
Từ khi kháng chiến bùng nổ đến khi kết thúc thắng lợi, đó là cả một quá trình gian nan vất vả khi tướng, quân sĩ và nhân dân cùng nhau đồng sức đồng lòng chiến đấu. Đoạn tiếp theo của Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi đã tuần tự giới thiệu từng bước tiến của cuộc chiến, từ những khó khăn ban đầu, những thuận lợi cơ bản cũng như bức tranh toàn cảnh giữa quân ta và quân giặc. Ngay từ ngày đầu kháng chiến, quân ta đã gặp không ít khó khăn: nhân tài hiếm hoi, lương khố cạn kiệt, hoàn cảnh ngặt nghèo nhưng nổi bật trong đó là hình ảnh người anh hùng áo vải Lê Lợi và tinh thần quyết tâm vượt qua khó khăn để tiến hành kháng chiến của quân và dân ta. Nguyễn Trãi suốt đời gắn bó với nhân dân, ở ông, tổ quốc và nhân dân là một không chỉ có mối liên hệ tình cảm sâu sắc mà ông còn nhận thức được một sức mạnh to lớn đang lan toả khắp trái tim của nhân dân, đó chính là lòng yêu nước. Chính lòng yêu nước, ý chí khắc phục gian nan và tinh thần đoàn kết đã tạo nên những thuận lợi cơ bản, làm cơ sở để cuộc kháng chiến dẫn đến thành công. Rõ ràng Nguyễn Trãi đã nhìn nhận một cách bao quát nhưng thấu đáo về tiềm năng của cuộc kháng chiến. Và bằng một giọng văn nhanh, mạnh, gấp gáp như một bản anh hùng ca, Nguyễn Trãi đã góp phần khắc sâu thêm nguyên nhân dẫn đến chiến thắng oanh liệt của ta và nguy cơ thất bại thảm hại của kẻ thù.
Đoạn thơ cuối cùng là lời tuyên bố, khẳng định nền hoà bình độc lập của dân tộc. Giọng thơ của Nguyễn Trãi dàn trải, hùng hồn càng tô đậm thêm cho cái “chính nghĩa” của lập trường “chính nghĩa” trong con người ông. Lời tuyên bố trang nghiêm, trịnh trọng về nền độc lập dân tộc đủ cho thấy Nguyễn Trãi rất tự hào vì những gì mà cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã giành được. Không những thế, ở ông còn toát lên niềm tin và quyết tâm xây dựng một đất nước thái bình, thịnh trị. Bởi đất nước có yên bình thì nhân dân mới được ấm no.Tấm lòng ông luôn canh cánh tâm niệm một điều vì nhân dân, ông quan niệm phải luôn lo trước điều thiên hạ lo, vui sau cái vui của thiên hạ. Cũng bởi yêu thương nhân dân, tôn trọng và biết ơn nhân dân nên khi đã làm quan rất lớn của triều đình, Nguyễn Trãi lúc nào cũng sống cuộc sống giản dị, cần kiệm liêm chính. Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi kết thúc một cách hoành tráng, thật là một bản Tuyên ngôn độc lập hào hùng của dân tộc.
Thật tiếc rằng với một tầm cao trí tuệ vượt trước thời đại, với tấm lòng nhân nghĩa hiếm có như vậy nhưng Nguyễn Trãi lại phải chịu một thảm án đau đớn nhất trong lịch sử dân tộc. Nhưng nhân dân và lịch sử luôn công bằng, nhà Lê sau đó đã tìm cách tẩy oan cho Nguyễn Trãi. Tài năng, đức độ và những cống hiến của Nguyễn Trãi với triều đại và dân tộc mãi mãi được nhân dân ghi ơn, cũng như bản hùng ca Đại cáo bình Ngô Văn chính luận như "Bình Ngô Đại Cáo" thì hùng hồn, đanh thép, sắc sảo, đúng là tiếng nói của một dân tộc bất khuất, anh hùng