Trương Hán Siêu (?-1354), có tự là Thăng Phủ, quê quán ở làng Phúc Thành, huyện Yên Ninh, nay thuộc Ninh Bình. Ông là môn khách của Trần Hưng Đạo, là con người cương trực, có học vấn uyên thâm, được vua nhà Trần tin cậy và nhân dân kính trọng hết mực. Tác phẩm"Phú sông Bạch Đằng" được viết khoảng 50 năm sau khi cuộc chiến chống quân Mông Nguyên thắng lợi. Thể Phú là thể văn có vần hoặc xen lẫn văn vần và văn xuôi, dùng tả cảnh vật, phong tục, kể sự vật và bàn chuyện đời. Bài thơ được viết theo thể Phú Cổ Thể. Trong đó đoạn thơ từ "Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều" cho đến "Tiếc thay dấu vết luống còn lưu" đã thể hiện được tâm trạng của nhân vật khách.
Câu đầu tiên đã nhắc đến những địa danh lịch sử là "bến Đông Triều, cửa Đại Than, sông Bạch Đằng". Người đọc cảm nhận được hình tượng nhân vật khách là sự phân thân của chính tác giả, với mục đích là dạo chơi thiên nhiên, thưởng thức vẻ đẹp của đất nước và nghiên cứu cảnh trí đất nước. Tác giả là người có học vấn uyên thâm, đi hành trình của mình bằng tri thức và sách vở, trí tưởng tượng. Từ đây, ta thấy tác giả là người không chỉ có tình yêu thiên nhiên mà còn là người có học vấn uyên bác, sâu rộng. Đồng thời, đây còn là con người có tâm hồn phóng khoáng, có hoài bão lớn lao. Qua đoạn thơ, cảnh sắc thiên nhiên bên sông bạch Đằng hiện lên với nhiều vẻ đẹp khác nhau. Đó là vẻ đẹp hùng vĩ hoành tráng được thể hiện qua những câu thơ "Bát ngát sóng kình muôn dặm/ Thướt tha đuôi trĩ một màu". Hình ảnh của kình, trĩ là những loài linh vật cao quý sức mạnh vô biên không có thực trong truyền thuyết tô đậm lên sự thiêng liêng, hùng vĩ của dòng sông. Từ láy "bát ngát, thướt tha" gợi nên sự rộng lớn về mặt không gian của dòng sông. Bên cạnh đó, người đọc còn thấy được vẻ đẹp trong sáng, nên thơ của dòng sông qua câu "Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu". Không gian đậm chất trữ tình nên thơ cùng phong cảnh thiên nhiên tươi sáng, khoáng đạt hiện lên. Cuối cùng, ta còn thấy được sự ảm đạm, hiu hắt qua câu "Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu. Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu. Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá, Tiếc thay dấu vết luống còn lưu!”. Thời gian trôi qua, để lại bao dấu vết, giờ đây chỉ còn lại "cảnh thảm". Những chi tiết gợi sự ảm đạm, hiu hắt là "giáo gãy, xương khô, cảnh thảm". Và rồi những dấu vết ấy cùng dần phai nhòa "Tiếc thay dấu vết luống còn lưu". Từ đó,ta thấy được tâm trạng vừa hứng khởi, tự hào mà vừa tiếc nuối, buồn thương của tác giả.
Tóm lại, qua đoạn thơ, ta không chỉ thấy được tình yêu thiên nhiên, tâm hồn rộng lớn của tác giả mà còn thấy được tâm trạng hứng khởi xen lẫn tiếc nuối của tác giả khi đứng trước dòng sông Bạch Đằng lịch sử thiêng liêng ấy.