MB : Thơ là tiếng nói diệu kì cất lên từ tâm hồn những người đang dạt dào cảm xúc. Đã từ lâu, người ta đi tìm một định nghĩa hoàn chỉnh về thơ và đưa ra khái niệm thế nào là một bài thơ hay. Đã có rất nhiều khái niệm khác nhau về vấn đề này, nhưng chỉ đến Xuân Diệu, người ta mới thực sự hiểu rõ " Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài".
TB :
– “Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài”
+ Hồn tức là nội dung, ý nghĩa của bài thơ.
+ Xác tức là nói đến hình thức nghệ thuật của bài thơ thể hiện ở thể loại, việc tổ chức ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu, cấu tứ…
– Như vậy, theo Xuân Diệu thơ hay là có sự sáng tạo độc đáo về nội dung cũng như hình thức nghệ thuật, khơi gợi tình cảm cao đẹp và tạo được ấn tượng sâu sắc đối với người đọc. Chỉ khi đó thơ mới đạt đến vẻ đẹp hoàn mĩ của một chỉnh thể nghệ thuật.
– Ý kiến của Xuân Diệu hoàn toàn xác đáng bởi nó xuất phát từ đặc thù sáng tạo của văn chương nghệ thuật. Cái hay của một tác phẩm văn học được tạo nên từ sự kết hợp hài hòa giữa nội dung và hình thức. Một nội dung mới mẻ có ý nghĩa sâu sắc phải được truyền tải bằng một hình thức phù hợp thì người đọc mới dễ cảm nhận, tác phẩm mới có sức hấp dẫn bền lâu
-Chứng minh làm rõ nhận định qua bài thơ " Quê hương" của Tế Hanh.
* Nội dung bài thơ
+ Vị trí, nghề nghiệp: Hai câu đầu giới thiệu về vị trí rất đặc biệt và nghề chài lưới của làng quê tác giả.
+ Cảnh ra khơi đánh cá: Đó là cảnh rất đẹp, đầy khí thế với những hình ảnh thật đẹp và ấn tượng về thời tiết, con người, cánh buồm.
“ Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
……………………………………….
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”
- Thời tiết trong lành, sáng sủa, mát mẻ: trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng. Con người khỏe mạnh: Dân trai tráng.
- Chiếc thuyền được so sánh và nhân hóa như: con tuấn mã rất hăng hái vượt trường giang.
- Cánh buồm là hình ảnh thơ độc đáo, sáng tạo được so sánh như mảnh hồn làng, nhân hóa như con người biết “Rướn thân trắng” để thâu góp gió.
+ Cảnh trở về thật ồn ào, đông đúc, yên bình, tươi vui, no đủ, một bức tranh ấm cúng, giàu sự sống, thơ mộng với lời cảm tạ chân tình của người dân chài.
“ Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ
……………………………………
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ”
- Hình ảnh người dân chài vừa tả thực vừa sáng tạo với nước da nhuộm nắng gió, thân hình vạm vỡ thấm đậm vị mặn mòi, nồng tỏa vị xa xăm của biển.
- Con thuyền được nhân hóa như có một tâm hồn tinh tế biết nằm nghỉ ngơi và lắng nghe.
- Người viết có một tâm hồn tinh tế, tài hoa, có tấm lòng gắn bó sâu nặng với quê hương.
+ Nỗi nhớ quê hương: Biểu cảm trực tiếp với nỗi nhớ biển, cá, cánh buồm, thuyền, mùi biển… tất cả được cảm nhận bằng tấm tình trung hiếu của người con xa quê.
“ Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
………………………………………
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá”
* Nghệ thuật
- Quê hương là bài thơ trữ tình, phương thức biểu đạt chủ yếu là biểu cảm. Ngòi bút miêu tả thẫm đẫm cảm xúc. Hình ảnh, ngôn từ đẹp, bay bổng, lãng mạn, biện pháp nhân hóa, so sánh độc đáo thổi linh hồn vào sự vật.
- Sáng tạo hình ảnh thơ rất phong phú, chính xác, chân thực qua ngôn ngữ giản dị.
KB : Như vậy, một lần nữa ta có thể khẳng định ý kiến của Xuân Diệu là hoàn toàn chính xác. Với ý kiến này, Xuân Diệu đã đưa ra một định nghĩa đầy đủ và chính xác về thơ . Đây chính là định hướng cho người cầm bút viết nên những tác phẩm hay, đồng thời cũng là định hướng tiếp nhận cho bạn đọc để có thể cảm nhận hết cái hay, cái đẹp mà thơ ca mang lại.