Ôn tập về bài Tây Tiến, Quang Dũng, phần 4
Lưu ý : Bài ôn tập có nhiều phần, các em đọc những phần khác ở link này :
Đề 1. Cảm nhận đoạn thơ: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
… Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Yêu cầu của đề:
Nội dung: Phân tích đoạn thơ làm nổi vật lên hình tượng người lính Tây Tiến qua nỗi nhớ da diết về đồng chí, đồng đội của Quang Dũng, về những cuộc hành quân gian khổ và vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội, hoang sơ những cũng rất thơ mộng của thiên nhiên miền Tây.
Lưu ý: Khi phân tích cần chia tách các khổ thơ, hình thành các lluanaj điểm sao cho chặ chẽ, phù hợp với cảm xúc của bài thơ; đồng thời làm nổi bật lên bút pháp lãng mạn và tính chất bi tráng, ngôn ngữ sáng tạo, giàu chất hoạ, chất nhạc của bài thơ.
Thao tác lập luận: Phân tích kết hợp với chứng minh, bình giảng (có thể so sánh với những văn bản cùng đề tài, chủ đề, cùng giai đoạn thơ ca kháng chiến chống Pháp như Nhớ của Hồng Nguyên hay Đồng Chí của Chính Hữu)
Lập dàn ý
Mở bài
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh và soạn nhạc. Nhưng trước hết ông là một nhà thơ có hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, đặc biệt
khi ông viết về người lính Tây Tiến.
Những chiến sĩ Tây Tiến luôn là kỉ niệm đẹp trong phần đời binh nghiệp của ông. Họ là những người đồng chí chiến đâu trong hoàn cảnh hết sức khó khăn vả về vật chất lẫn tinh thần, nhưng trong họ luôn hừng hực một lí tưởng cao đẹp “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Khi phải rời xa đơn vị, Quang Dũng đã trút cả tâm hồn, cả nỗi nhớ của mình vào bài thơ Tây Tiến. Đoạn trích được phân tích là phần đầu của bài thơ diễn rả nỗi nhớ da diết về đồng chí, đồng đội, về thiên nhiên con người miền Tây – nơi Quang Dũng đã cùng họ đi qua, cùng bên nhau chiến đấu.
Thân bài
Luận điểm 1: Cảm nhận chung
Tây Tiến là khúc ca về người lính được viết bằng bút pháp lãng mạn và cảm hứng bi tráng. Cả bài thơ là nỗi nhớ, là những kí ức, tâm niệm của tác giả về một những năm tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến. Ở đó, Quang Dũng đã đưa tới người đọc một vẻ đẹp khác của người lính thời chống Pháp khác với cái chân chất, mộc mạc của những người lính nông dân trong bài thơ Đồng Chí của Chính Hữu, đó là vẻ đẹp hào hoa của những chiến sĩ phần lớn xuất thân từ trí thức đất Hà Thành. Mạch cảm xúc xuyên suốt toàn bộ bài thơ là nỗi nhớ về đoàn quân Tây Tiến, về đất và người Tây Bắc.
Luận điểm 2: Phân tích
Hai câu thơ đầu là khúc dạo đầu của nỗi nhớ nhung
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Câu thơ đầu tiên vang lên như một tiếng gọi chân thành, tha thiết. Nhịp thơ 4/3 bẻ đôi câu thơ như sự chia cắt của hiện tại “SôngMã xa rồi” và quá khứ “Tây Tiến”. Hình ảnh sông Mã – một chứng nhân gắn bó bao kỉ niệm với Tây Tiến – không còn là con sông vô hồn của địa lí mà là dòng chảy suốt dọc bài thơ, chở nặng nỗi niềm cảm xúc khó quên, những kỉ niệm buồn vui mà Tây Tiến đã đã đi qua.
Nỗi nhớ vốn vô hình mà trong thơ Quang Dũng trở nên hữu hình. Nỗi nhớ ấy xuất phát từ sông Mã, từ sự xa cách về không gian, thời gian. Nỗi nhớ ấy vừa thực lại vừa ảo, chực tan biến mà lại chập chờn ẩn hiện. Cách gieo vần “ơi” cùng với điệp từ “nhớ” tạo độ vang vọng cho câu thơ, vang vọng mà vẫn lửng lơ đồng thời tạo âm hưởng da diết, ngân nga mãi trong lòng người đọc về một vùng rừng núi miền Tây xa xôi, về những con người Tây Tiến của năm tháng xưa cũ.
Hai câu tiếp
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Hai câu thơ miêu tả những khó khăn gian khổ trong đời sống chiến đấu của người lính Tây Tiến. Con đường các anh đi bao phủ bởi sương: sương phủ ở Sài Khao, sương bồng bềnh ở Mường Lát. Và đó không chỉ là màn sương của tự nhiên mà còn là màn sương mờ của kỉ niệm, của nỗi nhớ.
Bút pháp hiện thực đã miêu tả chân thực sự khắc nghiệt của thiên nhiên miền Tây qua hình ảnh một đoàn quân dãi dầu mệt mỏi, thấp thoáng ẩn hiện trong sương. Nhịp thơ 4/3 khiến trọng tâm câu thơ rơi vào từ lấp – động từ có sức gợi tả sức nặng của sương rừng miền Tây mênh mông, dày đặc che kín cả đoàn quân. Nhưng hiện thực khắc nghiệt của thiên nhiên lại được thi vị hoá bởi cảm hứng lãng mạn của những tâm hồn lãng mạn hào hoa: đêm sương thành đêm hơi bồng bềnh, những ngọn đuốc soi đường di chuyển dọc con đường hành quân được nhìn như những đoá hoa chập chờn, lung linh, huyền hoặc. Những thanh bằng trong câu thơ không chỉ diễn tả sắc hư ảo của màn sương mà còn tái hiện trạng thái mơ mộng, bay bổng trong tâm hồn người lính.
* Bốn câu tiếp:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Hình ảnh về chặng đường hành quân của người lính Tây Tiến được khắc hoạ đậm chất nhạc và chất hoạ.
+ Các từ ngữ giàu tính tạo hình được huy động: Khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút, cồn mây, súng ngửi trời… đã diễn tả đắc địa cảnh núi rừng miền Tây hoang sơ, hiểm trở. Độ cao của núi như chọc thủng trời mây “súng ngửi trời”; độ sâu, độ cao của dốc thì thăm thẳm “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”, thế núi như vút lên dựng đứng rồi đột ngột đổ xuống bất ngờ, nguy hiểm, kết hợp với cái heo hút, hoang vu, vắng lặng đến rợn người nhưng lại quá đối hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc.
+ Chất nhạc trong bốn câu thơ được tạo nên bởi âm hưởng đặc biệt của những thanh trắc đậm đặc: dốc, khúc khuỷu, thẳm, hút, súng, ngửi. khiến tiết tấu của câu thơ trở nên trúc trắc như chính sự khó khăn hiểm trở của đường hành quân cứ tăng lên mãi. Nhưng đến câu thơ “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi lại đột ngột lắng xuống toàn thanh bằng với nhịp thơ nhẹ, êm ái, cảm giác như trút hết được những mệt mỏi, căng thẳng của con người khi đã chiếm lĩnh được đỉnh cao, phóng tầm mắt ra bốn hướng nhẹ nhõm, sảng khoái, ngắm nhìn trong không gian bao la, mọt mùng sương rừng, mưa núi.
+ Nghệ thuật vẽ mây, nảy trăng giúp nhà thơ miêu tả núi rừng hùng vĩ, hiểm trở dữ dỗi cũng để làm nổi bật lên hình anh người lính Tấy Tiến trên bước đường hành quân và chiến đấu đầy gian khổ, vất vả hi sinh nhưng vẫn lạc quan yêu đời.
Bốn câu thơ mang vẻ đẹp của một bài thơ tứ tuyệt “thi trung hữu hoạ”, có sự phối hợp giữa các hình ảnh và tiết tấu, tạo nên bức tranh thiên nhiên, con người với những đường nét chạm khắc vừa gân guốc rắn rỏi, vừa êm dịu thơ mộng. Những gam màu của hội hoạ cùng thanh điệu trong âm nhạc đã được Quang Dũng thổi hồn qua cách sử dụng hệ thống hình ảnh và từ ngữ một cách đặc sắc, tài hoa.
Sáu câu cuối:
Quang Dũng không hề né tránh sự thật bi thương của của đoàn binh Tây Tiến trên bước đường hành quân.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời
+ Nhà thơ nói “anh bạn'” – những người đồng chí của mình – ngày nối ngày, đêm nối đêm, mưa nắng, đói rét, bệnh tật dãi dầu, mệt mỏi đến kiệt sức nhưng cái chết sự hi sinh được nhà thơ diễn tả bằng ngôn ngữ đầy chất bay bổng, ngạo nghễ nhẹ tựa lông hồng : “không bước nữa”, “Gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Các ông sống ngang tàng và chết cũng hiên ngang.
Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
+ Hai câu thơ tái hiện thiên nhiên nơi người lính Tây Tiến đi qua hoang dại, âm u, hiểm nguy. Những từ “chiều chiều ”, “đêm đêm” gợi cho người đọc ấn tượng về thời gian diễ ra triền miên nơi rừng thiêng thác sâu, cọp dữ. Nơi ấy luôn là mối đe doạ khủng khiếp đối với người lính Tây Tiến. Họ không chỉ bị ngã xuống trước họng súng của kẻ thù mà còn có thể bị ngã xuống bởi rừng thiêng, thác hiểm.
Nếu những câu thơ trên âm điệu lên xuống thất thường diễn tả thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hiểm trở thì hai câu kết của đoạn, những vần “ôi, oi, ôi” lại tạo ra cảm giác nhẹ nhàng, khoan khoái, âm điệu êm dịu, tha thiết, ấm áp vô cùng:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi + Hình ảnh cơm lên khói toả hương thơm của nếp xôi ngày mùa và hình ảnh của những cô gái Mai Châu lại hiền lên gọi về bao nỗi nhớ nôn nao. Câu thơ thể hiện nét lãng mạn, mơ mộng trong tâm hồn người lính xuất thân từ thanh niên trí thức Hà Thành với nỗi nhớ dâng trào cảm xúc về miền Tây, những bản làng ở Mai Châu, về những mẹ, những chị những em. trong mùa lúa chín.
+ Nếu xuân – hạ – thu – đông là mùa của đất trời thì “mùa em” là mùa của riêng Quang Dũng, của riêng những người lính Tây Tiến. “Mùa em” vương vấn mùi thơm của nếp xôi và ấm áp tình yêu thương của tình người, tình quân dân thắm thiết.
Hai câu thơ là những cụm từ ngữ đã được xoá đi những yếu tố kết nối để trở thành một tập hợp những ấn tượng của thị giác, khứu giác, xúc giác, thính giác … làm say người bởi sự lãng mạn và hào hoa.
Kết bài
Sự hoà quyện giữa bút pháp lãng mạn và cảm hứng bi tráng, Quang Dũng đã thể hiện cái tôi thi sĩ đầy xúc cảm trước thiên nhiên miền Tây vừa hùng vĩ, hoang sơ hiểm trở vừa thơ mộng. Nổi bật trên nên bức tranh ấy là hình ảnh đoan quân Tây Tiến dù phải trải qua những khó khăn gian khổ, những mất mát hi sinh nhưng tinh thần của người lính vẫn luôn kiên định, lạc quan, yêu đời, vượt lên tất cả “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
(Tài liệu sưu tầm )