Phân tích bài thơ dọn về làng của Nông Quốc Chấn
I. Tác giả
Nhà thơ Nông Quốc Chấn tên thật là Nông Văn Quỳnh, sinh ngày 18 tháng 11 năm 1923, quê gốc xã Cốc Đán, huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Cạn. Dân tộc Tày. Hội viên Hội nhà văn Việt Nam (1958).
Sớm giác ngộ cách mạng, ông hoạt động trong Mặt trận Việt Minh, tham gia du kích và giải phóng quân trước tháng 8 năm 1945. Sau cách mạng tháng Tám vẫn tiếp tục hoạt động trong Mặt trận Việt Minh, tham gia tỉnh ủy tỉnh Bắc Cạn, phục vụ chiến dịch và bắt đầu hoạt động văn hóa nghệ thuật. Sau 1945 nhà thơ Nông Quốc Chấn tham gia khu ủy Việt Bắc, là đại biểu Quốc hội khóa I, Chủ tịch Hội Văn nghệ khu Việt Bắc, Ủy viên rồi Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật toàn quốc. Từ năm 1964 đến nay, nhà thơ Nông Quốc Chấn tiếp tục đảm nhận những trọng trách của Đảng và Nhà nước: Đại biểu Quốc hội, Thứ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin kiêm Hiệu trưởng trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Hiệu trưởng trường Viết văn Nguyễn Du, Chỉ tịch Hội Văn hóa văn nghệ các dân tộc, Phó Chủ tịch Ủy ban Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Biên tập Tạp chí Toàn cảnh sự kiện và dư luận.
Tác phẩm đã xuất bản:
Tập thơ: Tiếng ca người Việt Bắc – 1959; Người núi Hoa – 1961; Đèo gió – 1968; Bước chân Pắc Bó – 1971; Suối và biển – 1984.
Tiểu luận: Một vườn hoa nhiều hương sắc – 1977; Đường ta đi – 1970.
Giải thưởng Văn học: Bài thơ Dọn về làng – Giải thưởng Đại hội liên hoan thanh niên sinh viên thế giới ở Béc-lin năm 1951; Một số bài thơ cách mạng và kháng chiến được Hội Văn nghệ Việt Nam trao giải 1945, Hội Nhà văn Việt Nam trao giải 1958. Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật. Và đặc biệt là bài Nhớ, đã được phổ nhạc và được công chúng yêu thích.
II. Tác phẩm
Dọn về làng được sáng tác năm 1950, là bài thơ viết về quê hương của tác giả trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp nhiều đau thương mà anh dũng. Bài thơ được trao giải nhì tại Đại hội liên hoan thanh niên và sinh viên thế giới ở Béc-lin, sau đó được dịch đăng trên Tạp chí Châu Âu. Bài thơ viết bằng tiếng Tày, do tác giả dịch sang tiếng Việt.
Dọn về làng là bức tranh hiện thực sinh động của nhân dân Cao – Bắc – Lạng trong những năm kháng chiến chống Pháp. Bức tranh có hai mảng tối và sáng: tối là cuộc sống cơ cực và bị giặc đàn áp của người dân; sáng là cuộc sống hồi sinh, vui tươi sau ngày hoàn toàn giải phóng. Tứ thơ Dọn về làng được khơi nguồn từ cảm hứng hồi sinh đó.
Bài thơ có kết cấu khá hiện đại theo trình tự hiện tại – quá khứ - hiện tại. Nhà thơ đứng ở thời điểm hiện tại để viết bài thơ. Mở đầu là những câu thơ tràn đầy niềm vui chiến thắng khi quê hương hoàn toàn giải phóng, mọi người chuẩn bị “dọn về làng” để khôi phục lại cuộc sống.
Mẹ! Cao – Lạng hoàn toàn giải phóng
Tây bị chết, bị bắt sống hàng đàn
Vệ quốc quân chiếm lại các đồn
Người đông như kiến, súng đầy như củi
Sáng mai về làng, sửa nhà phát cỏ
Cày ruộng vườn trồng lúa ngô khoai.
Từ niềm vui giải phóng, nhà thơ nhớ lại những năm cơ cực, khổ đau khi quê hương bị kẻ thù xâm lược, giày xéo tàn bạo, đồng thời bị bắn giết dã man:
Mấy năm qua quên tết tháng giêng, quên rằm tháng bảy.
Chạy hết núi khe, cay đắng đủ mùi.
Đoạn hồi ức khá dài này là sự đan xen giữa khổ đau và căm thù mà hình ảnh cái chết đầy uất hận của người cha đã nói rõ. Cái chết đau thương:
Không ván, không người đưa cha đi chôn cất
Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng
Con cởi ái liệm thân cho bố.
Đã tố cáo tội ác tày trời của quân cướp nước và lòng căm thù của tác giả (cũng là của nhân dân). Từ lòng căm thù, đoạn văn chuyển thành lời nguyền phẫn nỗ:
Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn
Băm xương thịt mày, tao mới hả.
Rồi từ hồi ức đau thương, cảm hứng thơ lại trở về với niềm vui giải phóng, với công việc “dọn về làng” tấp nập, vui vẻ trong cuộc sống hồi sinh của mọi người:
Hôm nay Cao – Bắc – Lạng cười vang,
Dọn lán, rời rừng, người xuống làng
Người nói cỏ lay trong rừng rậm,
Cuốc đất dọn cỏ mẹ khuyên con.
Đường cái kêu vang tiếng ô tô
Trong trường ríu rít tiếng cười con trẻ.
Đoạn thơ là một bức tranh đẹp của ngày “dọn về làng”. Dọn về làng là trở về với cuộc sống, là chiến thắng quân thù, là niêm vui giải phóng. Bởi vậy, sự trở về với cuộc sống ở đây mang một ý nghĩa mới cao hơn, tốt đẹp hơn. Nó có được là nhờ sự chiến đấu, hi sinh và gian khổ của bộ đội và nhân dân, nó là minh chứng hùng hồn cho mục đích chính nghĩa và sức sống mạnh mẽ trong cuộc kháng chiến của dân tộc. Cuộc sống ấy đẹp lắm, quý lắm, phải giữ lấy nó trong tay. Và người con đã lên đường vì lẽ đó:
Mặt trời lên! Sáng rõ rồi mẹ ạ!
Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà,
Giặc Pháp, Mĩ còn giết người, cướp của trên đấtt a
Đuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ.
Mở đầu bài thơ, tác giả gọi “mẹ” để báo tin Cao – Lạng giải phóng, kết thúc bài thơ lại từ giã “mẹ” để đi bộ đội giữ yên cho niềm vui đó. “Mẹ” ở đây vừa là mẹ cụ thể, vừa được khái quát thành người mẹ chung, thành quê hương đất nước.