Đề bài : Bình luận về chất lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.
BÀI LÀM
Có như là một thời, hai chữ lãng mạn thường gợi cho ta về một cái gì có hại, mang ý nghĩa tiêu cực, mềm yếu, không lành mạnh.v.v… Thực ra thì lãng mạn cũng có năm bảy đường. Lãng mạn như trong Tây Tiến của Quang Dũng là lãng mạn cách mạng, lãng mạn anh hùng. Nó làm cho đất nước thêm tráng lệ, kì vĩ, con người thêm sang trọng, hào hoa.
Có thể nói, cuộc sống tinh thần của mỗi con người hay cả một cộng đồng dân tộc sẽ nghèo nàn, cằn cỗi và nhàm chán biết bao nếu thiếu đi những ước mơ bay bổng, thiếu đi trí tưởng tượng phong phú, diệu kì.. Lãng mạn hiểu theo nghĩa đúng đắn, chắp cánh cho những ước mơ, thúc giục con người hướng tới cái đẹp, cái cao cả và sự hoàn thiện mà hiện thực cuộc sống còn chưa đạt tới. Chất lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến chính là cảm hứng bay bổng của nhà thơ hướng tới vẻ đẹp hào hùng và hào hoa của thiên nhiên và con người Tây Bắc. Vẻ đẹp ấy được cảm nhận từ một hiện thực gian khổ và đầy khốc liệt, khó khăn.
Chính vì thế, chất lãng mạn của bài thơ càng đáng trân trọng, nâng niu. Nói đúng hơn, chính nhờ chất lãng mạn ấy mà người lính Tây Tiến có thể vượt qua được mọi vất vả gian lao, mọi khó khăn thử thách. Chất lãng mạn trong Tây Tiến xuất hiện dường như để lấy lại “thăng bằng” cho cảnh vật và tâm hồn của con người, vì thế, bên cạnh một thiên nhiên hiểm trở, dữ dằn, những núi đá cheo leo, những cảnh rừng thiêng nước độc… ta lại thấy một thiên nhiên thơ mộng đến say người, một Tây Bắc đẹp như tranh thuỷ mặc. Nỗi nhớ Tây Tiến trong lòng nhà thơ cứ “chơi vơi” giữa hai gam màu ấy. Còn gì dữ dội và hiểm trở hơn những cảnh:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút còn mây, súng ngửi tròi…”
Còn gì hoang dại và âm u, rùng rợn hơn tiếng thác gào và tiếng cọp gầm:
“Chiêu chiều ớai linh thác gầm thét
Đềm dêm Mường Hịch cọp trêu người”
Nhưng liền đó lại là những cảnh rất đỗi nên họạ, nên thơ. Đó là chiều sương Mộc Châu, là “hồn lau” thấp thoáng “nẻo bến bờ”, là dáng người mảnh mai, mềm mại trên chiếc thuyền độc mộc
“Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Rõ ràng thiên nhiên Tây Bắc ở đây được cảm nhận với một vẻ độc đáo: vừa hùng vĩ, dữ dội, vừa tươi tắn, thơ mộng. Mà không chi thiên nhiên, chất lãng mạn bay bổng còn thể hiện rõ khi tác giả khắc họạ chân dung người lính Tây Tiến hiện lên trên cái nền hùng vĩ và mỹ lệ ấy của núi rừng Tây Bắc. Vẫn là sự đối chọi để “cân bằng” giữa một bên là hiện thực khắc nghiệt, là cuộc sống đầy gian nan và lắm hy sinh mất mát, với một bên là cuộc sống tươi đẹp và đầy chất thơ. Này đây là những vất vả, gian lao của cuộc đời người lính Tây Tiến: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”, “Anh bạn dãi dầu không bước nữa – Gục lên súng mũ bỏ quên đời!” Hình ảnh đoàn quân “không mọc tóc” với nước da “xanh màu lá” là kết quả của những trận sốt rét triền miên. Những nấm mồ nằm “rải rác” khắp “biên cương” và cảnh người lính ngã xuống không manh chiếu liệm.v.v… đủ nói lên tất cả gian khổ cùng cực của cuộc chiến đấu mà người lính phải gánh chịu. Nhưng nếu chỉ có thế, sức mạnh của hiện thực sẽ đè nát ý chí và tâm hồn người chiến sĩ. Chính cảm hứng lãng mạn đã truyền niềm tin đến những người lính Tây Tiến khiến các anh sẵn sàng hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho Tổ quốc “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Trong cái gian khổ khắc nghiệt trên, bỗng thoảng hương của nếp xôi của những cô gái xứ Mai Châu. Ta nao nao, say người trong đêm lửa trại giữa “hội đuốc hoa”, khi bắt gặp trong mơ hình ảnh “nàng e ấp” trong xiêm áo lộng lẫy và tiếng khèn man điệu hoang dại của núi rừng. Nhiều khi sự cân bằng, đối chọi giữa hai sắc màu – hiện thực và lãng mạn – thể hiện ngay trong từng câu thơ, từng đoạn thơ. Vừa thấy rợn người, trên độ cao ngàn thước chênh vênh bên bờ vực thẳm “ngàn thước xuống” đã lại thấy lòng thanh thản ngắm nhìn qua cơn mưa thanh bình nhà ai đó thấp thoáng ở lưng núi Pha Luông. Vừa thấy hiện lên trước mắt hình ảnh: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” rất hiện thực, đã lại chuyển sang hình ảnh đầy chất thơ “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, Câu thơ lung linh huyền ảo với hàng loạt thanh bằng (6/7) đã ảo hoá hiện thực. Người đọc chỉ cảm nhận được có một cái gì đó nhẹ nhàng, bâng khuâng, chơi vơi như nỗi nhớ, bảng lảng như sương chiều, xua tan đi cái mệt mỏi của đoàn quân. Cũng như thế ở câu trên ta. vừa thấy sự uất hận của người lính Tây Tiến gửi vào hai chữ “mắt trừng” thì ngay sau đổ lại “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” (một câu thơ cũng phần lớn dùng thanh bằng (5/7). Tính chất lãng mạn của bài thơ còn thể hiện ở một phương diện khác. Đó là chất bi tráng. Dường như vẫn là một cặp đối chọi nhau. Bi mà không luỵ, buồn đau mà hùng tráng, mái mát hy sinh mà vẫn lạc quan. Không bi sao được trước những gian nan đến ghê người, những cơn sốt rét, nước da xanh màu lá và tóc rụng không mọc lại được; không bi sao được trước những mất mát hy sinh “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”. Tuy nhiên bi mà không luỵ, bi mà hùng tráng mạnh mẽ “Quân xanh màu lá” mà vẫn “dữ oai hùm”. Ngay trong một dòng thơ, ta đã thấy rõ tính chất này: “áo bào thay chiếu anh về đất”. Những gian khổ, thiếu thốn đến thế là cùng: chết không có chiếu để chôn. Nhưng người lính cho dù là cái chết thê thảm nhất cũng không thể cướp đi được vẻ đẹp hào hùng oai phong và sang trọng trong tâm tưởng họ, nghĩ mình là những tráng sĩ thời xựa ngã xuống chiến trường trong áo bào đỏ thắm. Một câu thơ lãng mạn hoá cái chết. Một sự ra đi nhẹ nhàng, thanh thản, ung dung. Giọng thơ muốn hạ xuống cung bậc thấp nhất, phù hợp với nỗi tiếc thương. Nhưng hạ thấp là để mà cuối vút lên bản nhạc dữ dội và hùng tráng: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Những mất mát đau thương của con người như dồn nén, tích tụ trong tiếng gầm vang rung chuyển cả núi rừng của dòng sông Mã. Ai bảo lãng mạn như thế là tiêu cực, là yếu mềm? Thực chất, chính chất lãng mạn của bài thơ đã nâng được người đọc lên, vực dậy những người lính mệt mỏi đang “dãi dầu không bước nữa”, xoá tan đi bao nhọc nhằn đau khổ, lãng quên đi bao nỗi hiểm nguy và lấy lại cân bằng trong tâm hồn người lính, giúp họ vững bước đi lên… Chất lãng mạn ấy là sức mạnh và vẻ đẹp của người lính Tây Tiến.
Chất lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến nói riêng và ở Quang Dũng nói chung thực ra cũng là chất người, là cá tính của nhà thơ – một thanh niên trí thức rất mực hào hoa và lãng mạn. Đã đành đó còn là chuyện của cái tài nữa, phải tài lắm mới cđ được những câu thơ như thế. Nhưng đúng như một nhà phê bình đã nói: “Xét đến cùng cũng chỉ có lòng chân thật tuyệt đối với cảnh, chân thật với người và nhất là với chính lòng mình mới có thể tạo ra được những câu thơ vừa giản dị, mộc mạc, vừa táo bạo, mới lạ như thế’. Có lẽ cái gốc lớn nhất của tài năng Quang Dũng là ở đó chăng? “Chân thật rất mực với lòng mình”
Xem thêm : Soạn bài Tây Tiến ngữ văn 12
Tổng hợp những đề thi về các tác phẩm trọng tâm lớp 12