Phân tích đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” để thấy được nỗi cô đơn, buồn khổ của người chinh phụ trong tình cảnh chia lìa.
Lập dàn ý:
Mở bài:
– Giới thiệu tác giả Đặng Trần Côn, dịch giả và tác phẩm ” Chinh phụ ngâm”.
– Giới thiệu và nhận định đoạn trích.( ghi lại đoạn trích )
Thân bài:
Giới thiệu chung:
– Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác, thể loại, bố cục.
– Nêu vị trí, nội dung đoạn trích
Phân tích nội dung nghệ thuật đoạn thơ:
– Tám câu đầu: nỗi cô đơn lẻ bóng của người chinh phụ.
– Tám câu giữa: Nỗi sầu muộn triền miên.
– Tám câu cuối: Nỗi nhớ thương đau đáu.
Khái quát nghệ thuật:
– Bút pháp tả cảnh ngụ tình, miêu tả tinh tế nội tâm nhân vật.
– Ngôn từ chọn lọc nhiều biện pháp tu từ.
Kết bài:
Kết luận chung về nội dung, nghệ thuật đoạn thơ, cảm nghĩ về tác giả, tác phẩm.
Viết bài:
Tác phẩm ” Chinh phụ ngâm”, nguyên văn chữ Hán do Đặng Trần Côn sáng tác. Ông sống vào khoảng đầu thế kỉ XVIII, nổi tiếng vì ham học, học giỏi. Ông có nhiều sáng tác được người đương thời ca tụng, nhất là các bài phú. “Chinh phụ ngâm” là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của ông, tác phẩm có giá trị sâu sắc về nội dung và nghệ thuật mà tiêu bểu là đoạn thơ sau:
” Dạo hiên Vắng thầm gieo từng bước,
……………………………………………….
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.”
Đầu đời Lê Hiển Tông có nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra quanh kinh thành Thăng Long. Triều đình cất quân đánh dẹp nhiều trai tráng phải từ giã người thân ra trận. Đặng Trần Côn cảm động trước nỗi đau mất mát của con người, nhất là những người vợ lính trong chiến tranh nên ông đã viết ” Chinh phụ ngâm”.
Tác phẩm gồm 476 câu thơ, được làm theo thể trường đoản cú ( câu dài ngắn không đều nhau). Khúc ngâm nguyên văn chữ Hán được dịch ra tiếng Việt bằng thể thơ song thất lục bát rất thành công – là thể thơ có các khổ thơ song thất lục bát liên kết với nhau thành một bài thơ dài, phù hợp để vừa kể vừa bày tỏ tâm trạng; đồng thời đây là thể thơ giàu nhạc điệu, thích hợp bày tỏ tâm trạng buồn bã triền miên, nhớ nhung sầu muộn. Bản dịch hiện hành được xem là của dịch giả Đoàn Thị Điểm – một nữ sĩ tài giỏi thông minh.
Đoạn trích ” Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” thuộc đoạn thơ từ câu 193 đến câu 216 trong tác phẩm. Nội dung tóm tắt của 193 câu trước đó như sau : Sau khi tiễn người chồng ra trận, chinh phụ trở về chờ đợi với hi vọng mau chóng được gặp lại chồng, vì chàng đã hứa trong buổi lên đường là sẽ mau chóng trở về sống đoàn tụ. Nhưng các mốc thời gian mà chàng hẹn ước đều trôi qua mà chinh phụ vẫn sống cô đơn. Nàng dời nhà ra đi tìm gặp người chồng tại những điểm hẹn trước nhưng vẫn không thấy bóng chàng. Nàng đành quay trở về chốn khuê phòng, bắt đầu chuỗi ngày tháng sống mỏi mòn trong khắc khoải chờ mong.
Đoạn trích viết về tình cảnh và tâm trạng người chinh phụ phải sống cô đơn, buồn khổ trong thời gian dài người chồng đi đánh trận, không có tin tức, không rõ ngày trở về.
Tám câu đầu là nỗi cô đơn, lẻ bóng của người chinh phụ:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
………………………………………………
Hoa đèn kia với báng người khá thương”
Tâm trạng người chinh phụ thể hiện qua những hành động, cử chỉ lặp đi lặp lại: “dạo hiên vắng” buông những bước nặng nề, mệt mỏi ; “ngồi rèm thưa” buông rèm xuống, kéo rèm lên nhiều lần. Đó là những hành đông vô hồn, không có mục đích, bộc lộ tâm trang cô đơn, lẻ loi, nỗi lòng không biết san sẻ cùng ai của người chinh phụ. Hướng đến mong chờ tin tức từ “ chim thước”, vậy mà tin vẫn cứ im bặt, vẫn vô tình với người chinh phụ. Nàng hướng tới ngọn đèn trong căn phòng vắng để bày tỏ tâm trạng nhưng rồi cũng vô ích vì ngọn đèn cũng chỉ là vật vô tri vô giác làm sao thấu hiểu nỗi lòng chinh phụ. Bằng cách điêp bắc cầu và sử dụng câu hỏi tu từ: “đèn có biết? – đèn biết chăng?” càng làm nổi bật tâm trạng buồn triền miên, kéo dài, sự khắc khoải trong thời gian, không gian dường như không bao giờ dứt. Cuối cùng còn lại là hình ảnh ngọn đèn, hoa đèn cùng hình ảnh cái bóng in trên tường của chính mình. Những hình ảnh đó gợi sự đối bóng giữa người chinh phụ với ngọn đèn khuya, vẫn chỉ là “ một mình mình biết một mình mình hay”.
Tám câu tiếp theo là nỗi sầu muộn triền miên của chinh phụ:
“Gà eo óc gáy sương năm trống
……………………………………………………
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.”
Để diễn tả tâm trạng buồn rầu, nhớ thương và cô đơn của người chinh phụ, tác gỉa đã mượn hình ảnh tự nhiên: “ gà eo óc” để chỉ thời gian năm canh đã trôi qua, một đêm trôi qua, người chinh phụ thức trắng ; hình ảnh “ hòe phất phơ” gợi không gian tĩnh mịch, vắng lặng, trống trải. Tâm trạng buồn rầu, thương nhớ trong vô vọng trải dài cùng thời gian, trải rộng cùng không gian. Bằng biện pháp so sánh “ khắc giờ đằng đẳng như niên”, thời gian được cảm nhận là thời gian tâm lí, đếm từng bước thời gian nặng nề trôi, người chinh phụ cảm nhận một giờ dài tựa một năm, kết hợp với các từ láy : “đằng đẳng”,”đau đáu” càng khiến nỗi buồn như nhân lên gấp bội. Cuối cùng nàng tìm đến những thú vui tao nhã thường ngày như : đốt hương, soi gương, gảy đàn gượng gạo, cố ép mình, để rồi gượng đốt hương “ hồn đà mê mải”,gượng soi gương nước mắt dàn dụa, gượng gảy đàn sợ dây uyên đứt, phím loan chùng sẽ có điềm không hay về chồng ở nơi biên ải xa xôi. Chính vì vậy nỗi buồn không được giải tỏa mà càng tăng lên gấp bội, càng nhiều hơn. Bằng cách sử dung hình ảnh ẩn dụ tượng trưng : “sắt cầm”, “dây uyên”, “phím loan” mang tính chất ước lệ góp phần vào việc diễn tả tâm trạng thực của người chinh phụ, luôn nghĩ và hướng tới người chồng đang chinh chiến ở xa.
Tám câu cuối là nỗi nhớ thương đau đáu, không nguôi hướng tới chồng nơi biên ải xa xôi:
“ Lòng này gửi gió đông có tiện
…………………………………………………….
Cành cây sương đượm tiếng mưa phun.”
Tâm trạng cô đơn, lẻ bóng, mối sầu muộn nặng trĩu là những cảm xúc được dồn nén để thể hiện nỗi nhớ thương không nguôi. Người chinh phụ đã thể hiện niềm khao khát cháy bỏng muốn gửi nỗi lòng tới “non Yên”, mong được chồng thấu hiểu, mong được chồng sẻ chia thông qua “gió đông”, ngọn gió mùa xuân đầy tình yêu và hi vọng. Bằng cách mượn hình ảnh thiên nhiên “non Yên” – “đường lên bằng trời” mang tính chất ước lệ gợi không gian vô tận, bát ngát, xa xôi, mênh mông, không giới hạn, kết hợp với từ láy “thăm thẳm”, “đau đáu” không chỉ gợi lên sự ngăn cách giữa hai vợ chồng mà đó còn nhằm diễn tả mức độ của nỗi nhớ, nỗi nhớ đau đáu không nguôi. Trong văn học trung đại VN một thủ pháp nghệ thuật thường được sử dụng và đạt hiệu quả cao trong việc bộc lộ tâm trạng con người, đó là bút pháp tả cảnh ngụ tình. Nguyễn Du từng khái quát: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.”
Điều đó thật đúng trong trường hợp này, tâm trạng buồn rầu, nỗi nhớ không nguôi của người chinh phụ như thấm sâu vào cảnh vật xung quanh, trông theo cảnh vật càng khiến nỗi lòng đau đớn, xót xa, bao trùm lên cảnh là nỗi nhớ chồng không nguôi, là niềm thương đau đáu.
Tâm trạng cô đơn buồn khổ của người chinh phụ trong tình cảnh éo le, chia lìa được thể hiện rất thành công nhờ việc tác giả miêu tả tài tình diễn biến nội tâm nhân vật, sử dụng thành công bút pháp tả cảnh ngụ tình với cách sử dụng từ ngữ chọn lọc, kết hợp những biện pháp nghệ thuật như : từ láy , điệp, hình ảnh ước lệ tượng trưng…
Tóm lại,bằng những biện pháp nghệ thuật rất đắc sắc, đoạn trích đã thể hiện thành công tâm trạng cô đơn, lẻ bóng, những sầu muộn triền miên và nỗi nhớ thương đau đáu không nguôi của người chinh phụ trong tình cảnh chia lìa . Đó còn là tiếng nói lên án, tố cáo chiến tranh phong kiến phi nghĩa, bày tỏ khát khao được sống trong tình yêu, hạnh phúc lứa đôi của con người. Đây cũng là ý nghĩa làm nên giá trị nhân văn sâu sắc trong tác phẩm “ Chinh phụ ngâm”.