Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về truyện ngụ ngôn Đeo nhạc cho mèo.
Bài làm
Đây vốn là một truyện ngụ ngôn của Ê-dốp, nhà văn cổ đại Hi Lạp. Khi vào Việt Nam, tác phẩm được Nguyễn Văn Ngọc kể lại, trở nên rất sinh động với nhiều hình ảnh, nhiều tình huống hấp dẫn, đậm đà chất dân tộc.
Điều hấp dẫn thứ nhất là cảnh họp làng chuột đầy những chi tiết đối lập. Lúc đầu, cuộc họp bừng bừng khí thế. Sau khi nghe ông Cống - một con chuột to lớn nhất đàn, loại chuột chuyên sống trong cống rãnh nêu sáng kiến "đeo nhạc vào cổ mèo", cả làng chuột đều "dẩu mõm, quật đuôi.. và đồng thanh ưng thuận". Nhưng sau khi kiếm được nhạc, bàn việc cử người đeo nhạc vào cổ mèo thì... "cả hội đồng im phăng phắc, không một cái tai nào nhích, một cái răng nào nhe cả". Sự đối lập tiếp tục diễn ra ớ cuối truyện là việc chuột Chù thay mặt cả làng mang nhạc đeo vào cổ mèo. Chưa trông thấy hình dáng, mới chỉ nghe tiếng mèo, Chù đã sợ run cả mình... Rồi khi thấy mèo nhe nanh, giơ vuốt thì nó "cắm đầu, vác cái thân ì ạch chạy khốn chạy khổ" và cả làng chuột "cũng sợ, bỏ chạy tán loạn, chẳng ai hỏi đến cái nhạc...". Thế là "sáng kiến" của làng chuột trở thành "tối kiến" vô nghĩa, vô vị !
Điều hấp dẫn thứ hai của truyện này là hình hài, tính tình của từng loại chuột. Tác giả đã dùng nghệ thuật trào phúng để đặc tả một số con chuột. "Nào anh Chù, mùi hôi đến nỗi thành câu ca ; nào chú Nhắt, có tính nhí nhắt đã nên câu ví ; nào lại ông Cống, rung rinh béo tốt, quan trường lại chấm cho ở trên ông Đồ...". Mỗi con chuột đã được nhân hoá, mang ngoại hình và tính cách con người, gợi cho chúng ta nghĩ tới một số người trong xã hội. Ở đây là xã hội phong kiến ngày xưa. Cảnh làng chuột họp bàn cử người đeo nhạc vào cổ mèo cũng là hình ảnh làng xã ngày xưa. Tại đây những kẻ có chức có quyền như ông Cống, anh Nhắt thường o ép, bắt nạt những người cùng đinh trong làng là anh Chù ì ạch. Trong những cuộc họp làng ngày xưa ấy, nhiều khi giống như cuộc họp của hội đổng chuột, mọi người ồn ào nói chuyện, tranh cãi, bàn bạc... nhưng cuối cùng chẳng quyết định được điều gì ích nước, lợi dân mà toàn những chuyện viển vông, hão huyền không thể thực hiện được, y như chuyện chuột quyết định đeo nhạc vào cọ mèo vậy !
Có thể nói, truyện ngụ ngôn Đeo nhạc cho mèo miêu tả sinh động làng chuột và từng loại chuột khi đề xuất và khi thực hiện không thành một quyết định hão huyền mà cứ tưởng đó là sáng kiến. Từ đó, truyện khuyên nhủ mọi người luôn phải cân nhắc đến điểu kiện và khả năng thực hiện một việc nào đó. Truyện còn phê phán những ý tưởng viển vông, những kẻ ham sống sợ chết, chỉ nói mà không làm, trút khó khăn, nguy hiểm cho người dưới quyền. Thành ngữ "đeo nhạc cho mèo", "treo chuôrig cổ mèo", "hội đổng chuột" trong lời ăn tiếng nói thường ngày của nhân dân ta chắc đã sinh ra từ truyện ngụ ngôn đặc sắc này.
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện ngụ ngôn Đeo nhạc cho mèo.
Đeo nhạc cho mèo là một truyện ngụ ngôn hài hước, thú vị, chứa đựng ý nghĩa xã hội sâu sắc. Truyện kể về cuộc họp mặt của làng chuột để bàn cách chống mèo. Chuột cống có sáng kiến đeo nhạc cho mèo để mèo đi đến đâu, chuột sẽ biết trước mà tránh. Cả họ nhà chuột đồng tình với sáng kiến đó nhưng không ai dám đi đeo nhạc vào cổ mèo. Cuối cùng, chuột vẫn cứ bị mèo ăn thịt và mãi mãi khiếp sợ mèo.
Thông qua truyện, người xưa muốn phản ánh đôi nét hiện thực của cuộc sống đương thời dưới xã hội phong kiến trì trệ và đầy mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị với giai cấp bị trị. Đồng thời đặt ra bài học thiết thực về mối quan hệ giữa lí thuyết với thực hành; giữa nói và làm trong mọi công việc lớn nhỏ của cuộc sống hằng ngày. Nếu lí thuyết không thể biến thành hiện thực thì đó chỉ là thứ lí thuyết suông, làm tốn thời gian tranh cãi, bàn bạc một cách vô ích.
Truyện bắt đầu bằng nỗi sợ hãi truyền kiếp của loài chuột đối với loài mèo; Tự bao giờ đến giờ, mèo cứ xơi chuột luôn mãi, nên chuột mới đẻ ra là đã sợ mèo rồi. Họ nhà chuột căm giận mèo lắm. Một hôm, mới hội cả nhau lại làm một làng chuột để chống lại mèo. Lí do họp làng thật chính đáng: vừa bàn cách chống tổn thất, vừa để con cháu chuột mãi mãi về sau không sợ mèo; cả xã hội loài chuột có mặt đông đủ trong cuộc họp lạ lùng này: … nào anh Chù, mùi hôi đến nỗi thành câu ca, nào chú Nhắt,… nào ông Cống, rung rinh béo tốt, quan trường lại chấm cho ở trên ông Đồ… Bút pháp dân gian miêu tả khéo léo, tài tình đã làm nổi bật hình dáng, tính nết của từng loài chuột và nghệ thuật nhân hoá đặc trưng của ngụ ngôn đã tạo nên bức tranh sinh động về xã hội loài chuột, phảng phất hình bóng xã hội loài người.
Chuột Cống (loại chuột lớn nhất), tự cho mình là thông minh hơn cả đã đưa ra sáng kiến đeo nhạc cho mèo: Cái giống quái kia sở dĩ nó chụp được anh em mình chỉ vì trời phú cho nó cái tài rình mò và khéo bắt lén mà thôi. Bây giờ, bà con ta nên mua một cái nhạc buộc vào cổ nó, để khi nào nó đến, nghe tiếng nhạc, ta biết đường chạy trước, thì nó còn làm gì nổi ta nữa.
Chuột Cống nêu nguyên nhân vì sao mèo hại được chuột, rồi đưa ra cách giải quyết thật nhẹ nhàng và khẳng định chắc chắn là mèo không còn làm gì nổi loài chuột nữa. Lời lẽ của chuột cống mới nghe qua thấy đúng. Mèo thường rình chuột rất kín đáo và vổ chuột bất ngờ nên chuột không sao tránh kịp. Bây giờ đeo nhạc (lục lạc) vào cổ mèo thì mèo đi đến đâu, tiếng nhạc sẽ vang lên, báo cho chuột biết trước mà trốn. Ý kiến của chuột Cống hay tới mức xua tan được nỗi sợ hãi bấy lâu và khơi dậy niềm hi vọng thoát khỏi nanh vuốt của mèo, khiến cả làng chuột nghe nói, dầu mõm, quật đuôi, đều lấy làm phục cái câu chỉ ụ của ông Cống và đồng thanh ưng thuận.
Vậy là sáng kiến của chuột cống đã được tán đồng. Bước một (lí thuyết) đã xong, cái lục lạc cũng đã kiếm được rồi, hội đồng chuột lại họp để bàn bạc cử người đi đeo nhạc vào cổ mèo (bước hai – thực hành).
Hãy xem không khí vui mừng, náo nhiệt của làng chuột: … con nào con nấy lao xao hớn hở, bảo nhau đã sắp tới ngày thoát được cái ách ông Miu ranh mãnh rồi.
Nực cười thay, lúc hội đồng hỏi ai dám đem nhạc đeo vào cổ mèo, tức là thực hiện cái sáng kiến tuyệt vời ấy thì cả hội đồng im phăng phắc, không một cái tai nào nhích, một cái răng nào nhe cả. Trái ngược với lúc nghe chuột cống nói, làng chuột con nào con nấy dẩu mõm, quật đuôi, lao xao, hớn hở. Những chi tiết đối lập này có ý nghĩa mỉa mai, châm biếm sâu sắc. Không ai dám nhận công việc vô cùng nguy hiểm đến tính mạng ấy nên làng chuột đành cử ông Cống phải đi, vì chính ông cống đã xướng lên cái thuyết đeo nhạc vậy. Mọi người cho rằng chuột Cống nói được ắt phải làm được.
Đây là điều bất ngờ với chuột cống vì nó cho rằng mình chỉ là người đưa ra cách chống mèo thôi, còn thực hiện ắt phải là kẻ khác. Cho nên nghe vậy, Cống ta trong lòng tuy nao (lo sợ), mà ngoài mặt làm ra bộ bệ vệ kẻ cả, nói ràng: Tôi đây, chẳng gì nhờ tổ ấm cũng được vào bậc ông Cống, ông Nghè, ăn trên ngồi trước trong làng, có đâu làng lại cắt tôi đi làm cái việc tầm thường ấy được! Trong làng ta nào có thiếu chi người! Tôi xin cử anh Nhắt, anh ấy nhanh nhảu chắc làm được việc.
Chuột Cống tinh ranh vịn ngay vào chức vị của mình (kẻ trên), nêu ra sự bất xứng giữa chức vị ấy với cái việc tầm thường (đeo nhạc vào cổ mèo) và vội vàng đùn đẩy phần nguy hiểm sang cho kẻ khác (đề cử chuột Nhắt). Đáng cười ở chỗ lúc nêu ra sáng kiến đeo nhạc cho mèo, chuột cống cho đây là đại sự (việc lớn), đến lúc bị làng cắt phải làm, chuột cống lại từ chối khéo với lí do đó là việc tầm thường, không xứng với địa vị, chức tước, tài năng của mình.
Chuột Nhắt vốn láu cá. Nó chẳng dại gì nhận phần nguy hiểm nên cãi lí rằng: – Làng cắt tôi đi, tôi cũng xin vâng, không dám chối từ. Nhưng tôi, dù bé vậy, mà cũng còn ở chiếu trên, chưa đến nỗi nào. ông Cống không đi, phải; tôi đây không đi, cũng phải. Để xin cắt anh Chù, anh ấy tuy chậm, nhưng chắc chắn, làng không lo hỏng việc. Chuột Nhắt khôn ở chỗ lấy ngay cái lí do của chuột Cống làm lí do của mình (xét địa vị trong làng chuột), khẳng định mình không phải làm vì còn ở chiếu trên, tức là chưa phải hạng cùng đinh. Đồng thời Nhắt nhanh nhảu tiến cử ngay chuột Chù là kẻ bị khinh rẻ nhất trong làng chuột.
Chuột Chù thấp cổ bé miệng, không biết cãi sao đành chấp nhận nhưng cũng không khỏi lo lắng: – Tôi là đầy tớ làng, làng sai tôi đi là phải lắm. Nhưng tôi chỉ sợ, nếu tôi đến gần mèo mà mèo thịt tôi thì rồi lấy ai thay tôi mà buộc nhạc được nữa. Câu nói thật thà của Chù đã được chuột cống chớp nhanh chẳng kém gì mèo vồ chuột: – Mèo nó có vờn là vờn chúng tao, vờn cái anh Nhắt kia, chớ chú mày hôi hám như thế, thì nó bắt mà thèm vào. Thôi cứ nhận đi ngay đi, không được nói lôi thôi gì nữa. (Quả thật mèo không ăn thịt chuột Chù). Thế là chuột Chù đành phải vác nhạc đi tìm mèo. Chuyện làng chuột mà y như chuyện hội đổng làng xã ngày xưa. Cuối cùng, kẻ có địa vị thấp kém nhất thường phải làm những công việc vất vả và nguy hiểm nhất.
Cảnh chuột Chù vác nhạc đi tìm mèo để đeo vào cổ nó (thực hành cái sáng kiến được cho là chí lí của chuột Cống) được miêu tả thật sinh động và hài hước: Khôn chưa trông thấy mèo, mới nghe thấy tiếng, Chù đã sợ run cả mình, không dám tiến. Tuy không bị mèo vồ nhưng khi thấy mèo nhe nanh giương vuốt là Chù vội cắm đầu, vác cái thân ì ạch chạy khốn chạy khổ về báo cho làng hay. Thái độ của làng chuột cũng thảm hại chẳng kém, mới nghe Chù báo đã hoảng sợ, bỏ chạy tán loạn, chẳng ai hỏi đến cái nhạc, nó bon đi đâu và bon tự bao giờ không biết. Thành ra từ đó, chuột vốn sợ mèo, vẫn hoàn sợ mèo mãi.
Sáng kiến của hội đồng chuột đưa ra thật hay, thật hấp dẫn nhưng bất ngờ và đáng buồn cười là từ kẻ hiến kế cho đến kẻ bị bắt đi đeo nhạc, từ hạng có địa vị cao đến hạng cùng đinh, không một ai đủ can đảm để thực hiện diệu kế ấy. Kẻ bị bắt buộc phải làm thi ươn hèn, dốt nát, làm sao cố thể cáng đáng được công việc lớn lao ! Rốt cuộc, chuột vẫn sợ mèo.
Đeo nhạc cho mèo là một truyện ngụ ngôn đặc sắc, có ý nghĩa thâm Thúy. Trí tưởng tượng phong phú của dân gian đã xây dựng nên hình ảnh sinh động về xã hội loài chuột nhưng mang đậm nét của xã hội loài người với những hạng người có cá tính khác nhau. Cái hội đồng chuột trong truyện đâu có khác với cái hội đồng làng xã trong chế độ phong kiến xưa kia, quanh năm bận rộn họp hành, bàn cãi toàn chuyện tưởng như đại sự nhưng cuối cùng thì chẳng làm được việc chi có ích, chỉ tốn phí thời gian, tiền của mà thôi.
Truyện còn ngầm phê phán cách suy nghĩ viển vông và đưa ra bài học thiết thực đối với mỗi người: Trước khi làm gì, ta nên suy xét, cân nhắc cho thật kĩ khả năng thực hiện vấn đề đó, kẻo uổng công vô ích. Truyện còn phê phán những kẻ tham sống sợ chết, chỉ biết nói mà không dám làm. những lúc gặp khó khăn nguy hiểm thi vội vàng trút hết trách nhiệm cho người khác.