Soạn bài ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê của Hạ Tri Chương

(Hồi hương ngẫu thư)

I. Đọc – hiểu văn bản

Câu 1.

- Lí do để bài thơ ra đời là một nghịch lí ngậm ngùi bị gọi là khách ngay trên chính quê hương mình trong ngày đầu tiên trở về.

- Khác với Tĩnh dạ tứ của Lí Bạch ở xa quê nhớ quê nên mới viết về quê.

Câu 2.

- Nhận xét:

+ Phép đối này được thực hiện trong cùng một câu (tiếu đối).

+ Đối nhưng không cân về chữ, vì đây là thơ thất ngôn.

+ Nhưng chỉnh đối về mặt từ loại, cú pháp, ý và lời.

- Tác dụng của phép đối.

Thiếu tiểu li gia > < lão đại hồi

Rời nhà lúc trẻ < - > già mới về

Thiểu tiểu đối với lão; li gia đối với đại hồi. Hai quãng đời đối lập nhau của đời người. Hai hành động trái ngược nhau trẻ ra đi, già quay về = > thể hiện tấm lòng luôn hướng về quê của con người đã gần đi hết cuộc đời mình, “Cáo chết quay đầu về núi – Chim mỏi bay về rừng cũ”.

Hương âm vô cả > < mấn mao tổi

Giọng quê không đổi < - > tóc mai đội

Sự đối lập giữa cái thay đổi: tóc mai rụng đi do tuổi già và cái không thay đổi: giọng nói của quê hương vẫn còn nguyên sau cả nửa thế kỉ = > hồn quê hương, tình quê hương sống mãi trong lòng thi nhân.

Câu 3. Hướng dẫn.

Phương thức biểu đạt

Tự sự

Miêu tả

Biểu cảm

Biểu cảm qua tự sự

Biểu cảm qua miêu tả

Câu 1

X

X

X

Câu 2

X

X

Câu 1: Phương thức biểu đạt là biểu cảm qua tự sự.

Câu 2: Phương thức biểu đạt là biểu cảm qua miêu tả.

Câu 4. Sự khác nhau về giọng điệu biểu đạt ở hai câu trên và hai câu dưới:

- Hai câu trên:

“Trẻ đi, già trở lại nhà

Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu”

Giọng điệu miêu tả, tự sự và thoáng chút ngậm ngùi, tâm sự của người con xa quê lâu ngày nay mới được trở về.

- Hai câu dưới:

“Trẻ con nhìn lạ không chào

Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?

Giọng điệu hóm hỉnh, bi hài:

+ Sự ngây thơ, hồn nhiên của trẻ thơ.

+ Hoàn cảnh trớ trêu, bị gọi là khách ngay trên quê nhà.

+ Cảm giác bơ vơ, lạc lọng khi trở về quê không còn người thân thích, quen biết, nỗi ngậm ngùi đau xót.

+ Câu hỏi hồn nhiên của các em nhỏ làm cho tác giả vừa vui, vừa buồn.

II. Luyện tập.

So sánh hai bản dịch thơ của Phạm Sĩ Vĩ và Trần Trọng San.

- Giống nhau:

+ Cả hai bản dịch đều sử dụng thể thơ lục bát.

+ Sát với bản dịch nghĩa.

- Khác nhau:

+ Bản dịch của Phạm Sĩ Vĩ không có hình ảnh tiếu: tiếng cười của trẻ con.

+ Bản dịch của Trần Trọng San âm điệu câu cuối không được mềm mại, hơi bị hụt hẫng.

Bài viết gợi ý: