Đặc điểm nổi bật của cách mạng Việt Nam sau Hiệp định Geneva năm 1954 là đất nước tạm thời chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Miền Bắc hoàn toàn độc lập, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Miền Nam bị đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đặt ách thống trị, nhân dân bị kìm kẹp, đàn áp rất tàn bạo. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15 (tháng 01/1959), tiếp sau đó là Nghị quyết Đại hội lần thứ III của Đảng (tháng 9/1960) đã hoàn chỉnh đường lối cách mạng Việt Nam là giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng: “Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước. Hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau". Với đường lối đúng đắn, sáng tạo, Đảng ta đã động viên được sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc và sức mạnh của thời đại, sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, trước hết là của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, đặc biệt là sự đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung của ba nước Đông Dương (Việt Nam, Lào và Campuchia), tạo nên sức mạnh tổng hợp để từng bước đánh thắng kẻ thù