Nữ sĩ Anh Thơ tên thật là Vương Kiều Ân, sinh năm 1918, quê ở Bắc Giang. Trong suốt chặng đường sống, làm thơ và hoạt động cách mạng bà luôn dành nhiều tình cảm cho quê hương và đã có nhiều bài thơ viết về Bắc Giang. Tôi biết đến nữ sĩ Anh Thơ và bài thơ "Chiều xuân" của bà vào những năm đầu của thập kỷ tám mươi, thếkỷ XX. Làng tôi ở ven sông và cũng có một con đò. Con đường từ bến sông vào làng, cuối mùa xuân rụng đầy hoa xoan tím. Vốn là một cô bé thích học văn từ nhỏ, tình cờ một lần đọc được bài thơ:
"Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi...
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời..."
Thích thơ của bà, nhưng là thế hệ hậu sinh, sau bà hàng nửa thế kỷ và ở một miền quê cách xa Bắc Giang hàng trăm cây số, tôi không nghĩ có một ngày tôi đã đến quê hương của bà; đã đi trên con đê bà đã từng đi và nghĩ về bà trong một chiều xuân sông Thương "mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng". Và nhất là tôi không thể ngờ có một ngày tôi đã được gặp và phỏng vấn bà trong lần bà trở lại thăm Bắc Giang.
Ngay từ những năm 1941 tác phẩm "Bức tranh quê" của nữ sĩ Anh Thơ đã được giải khuyến khích của Tự lực Văn đoàn và tên tuổi của người con gái trẻ làm thơ ở bến sông Thương cũng đã gây xôn xao trên văn đàn từ ngày ấy. Với bài thơ "chiều xuân", chỉ bằng một vài nét chấm phá, bà đã tạo được cả một không gian xuân đằm thắm, trữ tình của vùng quê trung du đẹp mà buồn. Sau năm 1945, Anh Thơ đã trở thành một nhà thơ cách mạng. Không chỉ làm thơ cổ vũ, động viên tinh thần cách mạng, bà còn trực tiếp tham gia làm "chị nuôi", đi quyên góp tiền gạo nuôi quân, từng mặc áo dài lụa vân trắng, cưỡi ngựa hồng dẫn đầu đoàn quân tiến vào trại phỉ, cảm hoá chúng đi theo Việt Minh. Năm 1956, tập thơ Kểchuyện Vũ Lăng của bà được tặng thưởng của Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam. Năm 2001, bà vinh dự được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.
Với quê hương Bắc Giang, nữ sĩ Anh Thơ luôn có một tình cảm đặc biệt. Trong các tác phẩm của bà, giống như những cuốn nhật ký phản ánh chặng đường sống, làm thơ và hoạt động cách mạng với những con người bà đã gặp, những con đường bà đã đi qua..., hầu như đều ẩn hiện dáng hình mảnh đất bên dòng sông Thương, nhất là các tác phẩm "Chiều xuân", "Tiếng chim tu hú", "Từ bến sông Thương"...Tôi nhớ không rõ lắm, khoảng năm 1993 -1994. Hôm đó là chủ nhật, được biết hôm ấy vợ chồng nữ sĩ Anh Thơ sẽ về thăm gia đình bác Phương Minh Nam -lão thành cách mạng, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Hà Bắc, là bạn công tác cùng bà từ thời kháng chiến, tôi được cơ quan phân công đến gặp để thực hiện cuộc phỏng vấn đối với bà.
Bản thân tôi cũng thấy xúc động và hồi hộp vềcuộc gặp gỡ sắp diễn ra. Với một túi xách nhỏ và một chiếc máy ghi âm khá to khổ khoác trên vai, tôi tìm đến nhà bác Phương Minh Nam ở phố Nghĩa Long - phường Lê Lợi. Cả gia đình bác đang tất bật sửa soạn đểđón vợ chồng nữ sĩ Anh Thơ , bởi đó là lần đầu tiên bà đưa người bạn đời của mình là bác sĩ Bùi Viên Dinh, quê ở Đồng Nai "ra mắt" những người bạn ở Bắc Giang. Nghe ý định của tôi, cả bác Nam và bác gái Nguyễn Thị Uyên đều rất vui và ủng hộ. Khoảng gần 10h trưa thì vợ chồng nữ sĩ Anh Thơ về tới nơi. Nữ sĩ Anh Thơ với dáng mảnh, cao gầy, tóc chải rẽ ngôi lệch, búi cao, dáng đi nhanh nhẹn, phong cách rất giản dị mà vẫn toát lên vẻ đài các, thanh lịch của trí thức thời xưa. Cho đến bây giờ tôi vẫn cho mình là người may mắn khi được chứng kiến cuộc hội ngộ ấy. Những cái nắm tay thật chặt, những câu hỏi dồn dập về những người bạn cũ, những câu chuyện về ký ức xa xôi, những nụ cười và những giọt nước mắt... cả những câu chuyện tếu đùa vui, cứ như họ còn rất trẻ, cho dù ai cũng đã qua cái tuổi "thất thập cổ lai hy".
Sợ tôi đợi lâu, bác Nam nói với nữ sĩ Anh Thơ có cô nhà báo muốn được phỏng vấn bà. Có lẽ nữ sĩ cũng hơi bất ngờ vì bà hoàn toàn muốn dành chuyến đi này cho bạn bè nhưng bà vẫn vui vẻ nhận lời. Bà tỏ ra rất vui khi thấy tôi khá thuộc thơ của bà. Qua câu chuyện, nữ sĩ Anh Thơ đã kể cho tôi nghe về hoàn cảnh ra đời của bài thơ "Chiều xuân", về cảm giác của bà khi biết tác phẩm "Bức tranh quê" được giải thưởng; những thay đổi trong nhận thức của bà khi đi theo cách mạng; nỗi xúc động về những em bé, những người phụ nữ trong kháng chiến mà bà đã gặp...
Đang dở câu chuyện, như chợt nhớ ra, bà gọi bác Uyên hỏi thăm về bà Nguyễn Thị Mùi (nguyên là Phó Chủ tịch Hội Phụ nữ tỉnh), rồi bà quay sang tôi, lau nước mắt, xúc động: "Một trong những người tôi luôn kính trọng, cảm phục và thương mến là chị Mùi. Tôi có may mắn hơn chịlà ít nhiều còn được học hành, biết chữ. Chị Mùi điển hình là người phụ nữ nông dân giàu nghị lực, luôn nhẫn nại, hy sinh vì cách mạng. Mỗi lần đọc câu thơ của nhà thơ Tố Hữu: "Việt Nam - rũ bùn đứng dậy sáng loà !" là tôi lại nghĩ đến chị Mùi".
Khi tôi hỏi cảm xúc của bà khi trở lại thăm quê hương Bắc Giang. Bà nói: "Tôi đã ở Bắc Giang từ những ngày còn trẻ và có rất nhiều kỷ niệm. Bắc Giang giờ đây đã thay đổi nhiều. Mừng nhất là phụ nữ Bắc Giang ngày càng được tôn trọng, bình đẳng với nam giới".
Chiều hôm ấy, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh đã mời vợ chồng nữ sĩ Anh Thơ giao lưu với các anh chịem văn nghệ sĩ của địa phương. Ban tổ chức đã dành cho nữ sĩ một sự bất ngờ đó là đón cụ Mùi tới cuộc giao lưu. Đang say sưa chuyện văn chương, nhìn thấy cụ Mùi, nữsĩ Anh Thơ ôm chầm lấy cụ oà khóc, khiến ai cũng xúc động. Bà cứ nắm vai, nắm tay cụ Mùi và nói: "Chị Mùi của tôi, người phụ nữ Việt Nam "rũ bùn đứng dậy sáng loà" của tôi đây !".
Cuộc gặp gỡấy đến nay đã gần 20 năm. Cụ Mùi, nữ sĩ Anh Thơ, bác Phương Minh Nam cũng đã không còn nữa... nhưng mỗi lần nhớ lại, trong lòng tôi vẫn thấy rưng rưng. Chiều nay đi trên đê sông Thương, ngắm cây cầu mới vắt ngang qua sông và tấp nập dòng người đi sắm Tết, tôi vẫn như thấy thấp thoáng bóng bà đi trong chiều xuân có mưa đổ bụi êm êm và đầy hoa xoan tím... Trong khoảnh khắc ấy. Hãy biết trân trọng và giữ gìn quá khứ. Và phải chăng - đó cũng chính là điều mùa xuân luôn mong chờ!