Bài văn mẫu phân tích bài thơ Chiều Tối ( Mộ ) – Hồ Chí Minh. SGK Ngữ văn 11
CHIỀU TỐI

Mục Lục

  • 1 Mở bài Cho bài thơ Chiều tối
  • 2 Thân bài: Phân tích bài thơ Chiều tối
  • 3 Kết Luận:
  • Mở bài Cho bài thơ Chiều tối

    Với bút pháp vừa cổ điển vừa hiện đại, bằng một vài nét chấm phá, Bác đã khắc họa được một bức tranh trời chiều xinh xắn nơi núi rừng có ánh lửa hồng của lò than nhà ai chiếu sáng hình ảnh cô gái lao động. Từ bức tranh thơ bừng sáng lên một tấm lòng lạc quan, đôn hậu đối với con người và đặc biệt nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên của Bác. Đó chính là nét đặc sắc nhất của bài thơ “ Chiều tối”.

    Thân bài: Phân tích bài thơ Chiều tối

    Hoàn cảnh sáng tác:
    Trong tác phẩm “ Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch” tác giả Trần Dân Tiên có cho biết hoàn cảnh sáng tác của bài thơ như sau: “ Người ta giải Cụ Hồ đi nhưng không cho biết Cụ đi đâu.Tay bị trói giật cánh khuỷu, cổ mang xích, có sáu người lính mang súng giải đi, đi mãi nhưng vẫn không cho biết đi đâu. Dầm mưa, dãi nắng, trèo núi, qua truông. Mỗi buổi sáng gà gáy đầu, người ta đã giải Cụ Hồ đi, mỗi buổi chiều, khi chim về tổ, người ta dừng lại ở một địa phương nào đó giam Cụ vào trong một xà lim, trên một đống ra bẩn, không cởi trói cho Cụ ngủ”.
    Sự hài hòa giữ cảnh và tình: ( Biểu hiện tâm trạng trong cảnh vật)
    Phải gắn bài thơ,với cảnh tù đày, chuyển lao đầy gian khổ của Bác như thế, chúng ta mới thấy hết ý nghĩa sâu xa của bài thơ. Suốt ngày phải chuyển lao gian khổ, gần về tối, người tù ngẩng đầu lên đỉnh trời rồi bất chợt nhận ra cánh chim bay về rừng tìm chốn ngủ và làn mây lẻ loi lững lờ trôi. Dù lâm vào cảnh ngộ bị đọa đày, Hồ Chí Minh vẫn thể hiện tình cảm yêu mến, thiết tha và thái độ đồng cảm, chia sẻ với tạo vật thiên nhiên vùng sơn cước lúc chiều buông. Bởi: “ Bác yêu trăng như thể yêu người”. Đối với Bác hoa với trăng là bạn.
    Hình ảnh thơ của Bác xuất hiện thật tự nhiên. Tuy là hình ảnh thơ mang màu sắc ước lệ của thơ cổ điển, nhưng vẫn phù hợp với cảnh thực, tâm trạng thực của nhà thơ. Bởi cũng như tâm trạng con người đang mệt mỏi cô đơn, hình ảnh cánh chim xuất hiện ở câu thơ đầu tiên gợi cho ta một cái gì đó mệt mỏi, chán chường
    “ Quyên Điểu quy lâm tầm túc phụ”
    Ở đây đã có sự hòa hợp cảm thông giữa con người và cảnh vật. Điều đó cũng được thể hiện rõ hơn ở câu thơ thứ hai bởi từ “ Cô vân mạn mạn độ thiên không”. Bản dịch chưa lột tả được hết ý, hết tình trong hình ảnh “ cô vân” và từ “ mạn mạn” trong nguyên tác. Hình ảnh “ cô vân” nói lên làn mây lẻ loi cô đơn gợi nỗi buồn đơn côi của cảnh chiều. Từ “mạn mạn” nghĩa là chậm chậm cũng gợi lên sự uể oải, lững lờ của đám mây chiều. Điều đó làm cho làn mây cũng trở nên có tâm trạng hơn,dường như nó cũng mang nỗi buồn như con người.
    Thơ ca cổ điển xưa nay hay sử dụng thủ pháp lấy không gian để miêu tả thời gian. Cho nên trong cảnh chiều muộn thường xuất hiện hình ảnh cánh chim, làn mây:
    Chim hôm thoi thót về rừng
    (Nguyễn Du)
    “Chúng điểu cao phi tận
    Cô vân độc khứ nhàn”
    (Lý Bạch)
    Xuân Diệu dịch:
    “Chim rừng một loạt cao bay
    Trên trời lơ lửng đám mây một mình”
    Ở đây thơ Bác cũng có hình ảnh chim bay mỏi nhưng lại có thêm hình ảnh cỏ vân. Song không phải là cô vân độc khứ nhàn, gợi sự nhàn nhã, cô độc, thanh cao, phiêu diêu, thoát tục mà là “Cô vân mạn mạn độ thiên không” làm cho khung cảnh buổi chiều thêm cô đơn, mệt mỏi buồn thương hơn. Đúng là câu thơ của một tù nhân vào buổi chiều tà nơi xa xứ. Bởi “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Buồn vì xa tổ quốc quê hương, bạn bè đồng chí, trong khi Cách mạng đang mong chờ, buồn vì bị mất tự do không biết bao giờ mới được ra khỏi tù. Người trong cảnh ấy, cảnh trong tình này Bác vui sao được? Chưa kể cảnh ngộ trong bài thơ chiều tối của Bác còn là điểm tiếp nối hai sự đoạ đầy của người tù. Sự đoạ đầy ban ngày chưa qua, sự đoạ đầy ban đêm đang chờ đợi phía trước.
    Hai câu sau: ý thơ của Bác rất hiện đại luôn luôn hướng về sự sống và ánh sáng. Nhưng nếu bài thơ của Bác chỉ dừng lại ở đó thì nhà thơ Hồ Chí Minh của chúng ta có hơn gì các nhà thơ cổ điển như Bà Huyện Thanh Quan, Đỗ Phủ, Lý Bạch, đặc biệt là nhà thơ Liễu Tống Nguyên với bài thơ “Giang Tuyết” hết sức tĩnh lặng và lạnh lẽo.
    “Ngàn non bóng chim tắt
    Muôn nẻo dấu người không
    Thuyền đơn, ông tơi nón
    Một mình câu tuyết sông”
    Song thơ Bác rất cổ điển mà cũng rất hiện đại cho nên đến hai câu sau Bác viết:
    “Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
    Bao túc ma hoàn lô dĩ hang”
    Đến hai câu thơ này bức tranh trữ tình về cảnh trời mây đã nhường chỗ cho bức tranh sinh hoạt gần gũi ấm áp của con người. Câu thơ chỉ là một lời lẽ bình thường. Nhưng ý thơ thì sinh động và đẹp đẽ biết bao trong nguyên văn “Sơn thôn thiếu nữ”, mà dịch thành “có em xóm núi” thì lời dịch đã làm sai lệch mất ý thơ rất hay trong nguyên tác. Với câu thơ ấy, bác đã đưa hình ảnh cô gái lao động lên vị trí trung tâm, đẩy lùi về phía sau nền trời chiều với cánh chim bay mỏi và làn mây trôi nhẹ. Ta nên nhớ rằng trong thơ xưa, cảnh thiên nhiên thường vắng bóng con người, và con người bị hoà vào thiên nhiên:
    “Lom khom dưới núi tiều vài chú
    Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
    Bài thơ “Chiều tối” được kết thúc bằng một hình ảnh thật tự nhiên mà bất ngờ thú vị “xay hết lò than đã rực hồng”. Ngọn lửa hồng ấm áp đã bừng sáng.
    Như thế là bài thơ tứ tuyệt của Bác đã diễn tả được sự vận động của thời gian từ chiều đến tối hẳn. Tìm hiểu trong câu thơ nguyên tác của Bác, chúng ta thấy câu thơ không có chữ “tối” mà nói được cái tối, bởi thời gian cứ trôi dần theo cánh chim bay, làn mây, cùng nhịp vòng quay cối xay ngô. Điệp từ “bao túc” được Bác dùng theo trật tự đảo gợi được sự đều đều của vòng quay, cối xay ngô của sự tuần hoàn luân chuyển của thời gian và cho đến khi cối xay dừng lại lò than đã rực hồng, tức là thời gian đã tối hẳn. Có thế mới làm nổi rõ được cái rực hồng của lò than vốn đã hồng từ lúc nào. Ở đây, tưởng dùng cái sáng để nói cái tối. Đó là một thủ pháp rất quen thuộc của thơ ca cổ điển. Thế mà bản dịch đã đưa thêm một chữ tối vào làm giảm tính hàm xúc và mất đi vẻ đẹp cổ điển tinh tế có màu sắc rất Đường Tống này của hình ảnh thơ Bác.
    Cùng với sự vận động của thời gian ấy là sự vận động của cảnh sắc, tư tưởng tính chất của tác giả. Sự vận động và chuyển biến thật bất ngờ khoẻ khoắn. Từ tối đến sáng, từ tàn lụi đến sự sống, từ buồn đến vui, từ lạnh lẽo đến cô đơn đến ấm nồng. Suốt ngày phải chuyển lao gian khổ vượt vúi băng rừng, lội suối; còn phía trước biết đâu một số tối nhà ngục lạnh giá đầy muỗi rệp, xích xiềng đang chờ đợi. Đã thế, cảnh chiều buông nơi miền sơn cước tỉnh Quảng Tây lại dễ khêu gợi nỗi sầu tha hương, vậy ý thơ của Bác đi từ bóng tối đến ánh sáng, từ buồn đến vui, một cái vui tràn đầy trong cuộc sống (Hoài Thanh). Điều này được thể hiện rõ nhất ở chữ “hồng” cuối bài thơ. Đây chính là chỗ đẹp nhất của bài “Chiều tối”.
    “Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
    Giang phong ngư hoả đối sầu miên
    Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự
    Dạ bản chung thành đáo kháng huyền”.
    Không phải là hình ảnh “Lửa trại cây bến, sầu vương giấc hồ” trong thơ “Trương kể” mà là ánh lửa hồng đầm ấm reo vui hạnh phúc, ánh lửa hồng của sự sống, niềm lạc quan. Với một chữ “hồng” Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ đã làm mất đi sự mệt mỏi, uể oải, vội vã, nặng nề đã diễn tả trong 3 câu thơ đầu, đã làm sáng rực lên gương mặt cô gái sau khi xay xong ngô tối. Chữ “hồng” trong nghệ thuật đời thường, người ta gọi là nhãn tự (chữ con mắt). Một mình chữ “hồng” đã làm cân bằng sinh khớ cho cả bài thơ, đúng như Hoàng Trung Thông đã nhận xét: “Với chữ “hồng” đó, có ai còn cảm giác nặng nề, mệt mỏi nhọc nhằn nữa đâu mà chỉ thấy màu đỏ đã nhuốm lên cả bóng đêm, cả thân hình, cả lao động của cô gái yêu kia. Đó là màu đỏ của tình cảm nhân ái, lạc quan Bác Hồ“. Chữ “hồng” cũng góp phần tạo nên chất hội hoạ cho bài thơ, khắc hoạ được một bức tranh có cảnh vật có con người, có gam màu tối sáng. Như vậy Bác Hồ đã vượt lên trên cái cảnh ngộ khổ đau buồn bã của bản thân để hướng tâm hồn mình đến quan tâm chia sẻ với niềm vui giản dị của cô gái là xay ngô nơi xóm núi. Mới biết mọi vui buồn sướng khổ của chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều khi không thể giải thích được bằng cảnh ngộ riêng của Người mà phải căn cứ vào cảnh ngộ của người khác; của nhân dân, của nhân loại. Đây là một tấm lòng nhân đạo lớn đã đạt đến mức “nâng niu tất cả chỉ quên mình”.

    “Ôi lòng Bác vậy cứ thương ta
    Thương cuộc đời chung, thương cỏ hoa
    Chỉ biết quên mình cho hết thảy
    Như dòng sông chảy nặng phù sa”

    Kết Luận:


    “Chiều tối” là một bài thơ nhỏ mà đã thể hiện một phong cách lớn: phong cách Bác Hồ:
    “Tinh hoa trái đất, chất kim cương
    Con người đẹp nhất trong nhân loại
    Trí tuệ tình yêu của bốn phương”
    Bài thơ đã toả sáng một tấm lòng nhân đạo bao la. Chính tấm lòng ấy đã làm cho bài thơ “Chiều tối” không phải là kết thúc bằng hình ảnh bóng đêm tăm tối mà bừng sáng một ngọn lửa hồng ấm áp.
    Bài viết sưu tầm
    Xem thêm : Tuyển tập những bài văn hay, những đề thi về bài Chiều tối, Giáo án bài Chiều tối soạn theo 5 hoạt động, điịnh hướng phát triển năng lực học sinh : Chiều tối

    Bài viết gợi ý: