VĂN BẢN : CHÍ PHÈO

I. TÍM HIỂU CHUNG

1. Tác giả :

        Nam Cao quê ở làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, là một trong những cây bút hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam trước Cách mạng.

BS : Đối với đề tài người nông dân, Nam Cao là nhà văn đến muộn. Trước Nam Cao đã có khá nhiều cây bút xuất sắc khai thác triệt để đề tài này : Nguyễn Công Hoan với Bước đường cùng, Ngô Tất Tố với Tắt đèn, Vũ Trọng Phụng với Vỡ đê … Dường như không còn gì có thể viết hay, viết sâu sắc, chân thực hơn nữa về nông thôn Việt Nam trước CMT8. Đề tài này như một mảnh đất được thâm canh, cày xới kĩ càng nhưng Nam Cao vẫn có một mùa bội thu cới Chí Phèo. Từ khi Chí Phèo nghệch ngưỡng bước ra từ trang văn thì y đã trở thành hình tượng điển hình bất hủ cho bi kịch của người nông dân trong xã hội tăm tối trước 1945.

2. Tác phẩm

a) Nhan đề

- Ban đầu Nam Cao đặt tên cho tác phẩm là Cái lò gạch cũ à nhấn mạnh sự quẩn quanh bế tắc của cuộc đời người nông dân thiện lương trước Cách mạng. Cái lò gạch cũ gắn với cuộc đời Chí Phèo như biểu tượng về sự xuất hiện tất yếu của hiện tượng Chí Phèo.

- Khi in thành sách : Đôi lứa xứng đôi à giật gân, gây tò mò và đánh vào thị hiếu của một lớp công chúng thời bấy giờ.

- Năm 1946 : Nam Cao đặt lại tên là Chí Phèo

b) Tóm tắt

       Truyện kể về cuộc đời Chí Phèo, một đứa trẻ bị bỏ rơi vô thừa nhận. Chí Phèo được người làng nhặt về nuôi, đến năm 20 tuổi làm canh điều cho nhà Bá Kiến. Vì ghen tuông, Bá Kiến đẩy Chí Phèo vào tù. Sau bảy tám năm ở tù về, từ một người hiền lành, lương thiện, Chí thành con quỹ dữ làm tay sai cho Bá Kiến gây bao tội ác cho dân làng. Sau khi gặp thị Nở, bản chất lương thiện trong Chí trỗi dậy. Chí mong muốn thị giúp mình trở lại cuộc sống bình thường nhưng không được vì bị thị Nở cự tuyệt. Qúa đau đớn, phẫn uất, Chí Phèo đến nhà Bá Kiến, giết hắn và tự kết liễu đời mình.

3. Chủ đề

          Qua số phận bi thảm của Chí Phèo, Nam Cao lên án sâu sắc xã hội tàn bạo chà đạp nhân phẩm con người, vạch ra mối mâu thuẫn gay gắt không thể điều hòa ở nông thôn Việt Nam đương thời và tình trạng tha hóa phổ biến trong xã hội. Đồng thời Nam Cao thể hiện tư tưởng nhân đạo tốt đẹp, niềm tin vào bản chất lương thiện của con người.

II. TÌM HIỂU VĂN BẢN

  1. A.     HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT CHÍ PHÈO

1)      Bi kịch bị lưu manh hóa

a. Qúa trình

- Từ một nông dân lương thiện, chỉ vì một cơn ghen vô cớ của Bá Kiến nên Chí bị đẩy vào tù. Ở tù ra, Chí Phèo biến dạng và triền mien trong say sưa, tội lỗi :

  + Ngoại hình : Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế à biến dạng về nhân hình : như một con vật lạ.

 + Tâm tính bị hủy hoại : bị mua chuộc, trở thành tay sai, nô lệ, trở thành con quỹ dữ của làng Vũ Đại, gieo tang tóc cho người khác à bị chà đạp, cướp đi nhân tính. Chí muốn tồn tại trong xã hội đầh nghiệt ngã kiaa phải gây ra cảnh đổ máu : một là đổ máu chính mình bằng cách rạch mặt ăn vạ, hai là đổ máu người khác bằng cách kiếm chuyện gây gổ.

à Nhà tù Thực dâ tiếp tay cho lão cường hào ác bá nhào nặn ra Chí của ngày hôm nay. Chúng cướp đi của Chí nhân hình lẫn nhân tính, để Chí trở thành con quỹ dữ của làng Vũ Đại.

b. Tác nhân : Bá Kiến

     Đây là một nhân vật phản diện được Nam Cao tập trung khắc họa sinh động đầy ấn tượng :

+ Bá Kiến là một tay địa chủ gian hung, xảo quyệt, một “lão cáo già”, “khôn róc đời”, “có tiếng chửi rất sang”. Bá Kiến đầy rẫy những âm mưu thâm độc trong việc thống trị người nông dân.

+ Tính cách gian hung của hắn còn thể hiện cả khi đối xử với Chí Phèo. Vì lên cơn ghen mà hắn thẳng tay đẩy Chí vào tù, rồi lại xử nhũn để Chí nhớ ơn mà làm tay sai cho hắn, từ đó biến Chí Phèo – một anh canh điền hiền lành thành công cụ để thanh toán những kẻ đối nghịch. \

 + Nam Cao đã dùng những chi tiết đặc biệt để tô đậm tính cách Bá Kiến : tiếng chửi rất sang, cái cười Tào Tháo, cách Bá Kiến thay đổi thái độ: “quát” mấy bà vợ, dịu giọng với bọn người làng, cười nhạt, đổi giọng than mật với Chí …

à Tiêu biểu ccho bộ mặt xấu xa của bọn cường hào địa chủ ở nông thôn Việt Nam trước CM.

c. Nhận xét : Chí Phèo là một hiện tượng có tính quy luật, là sàn phẩm của tình trạng áp bức tàn khốc ở nông thôn Việt Nam trước CM. Xã hội đen tối đương thời không cho con người sống tử tế, hiền lành. Người dân lương thiện bị đẩy vào con đường lưu mang, tội lỗi, rất dễ bị bọn thống trị lợi dụng, dần biến dạng về nhân hình lẫn nhân tính.

2)      Bi kịch bị từ chối quyền làm người.

a)      Qúa trình

v  Trước khi đi tù

q  Ấu thơ : là một đứa trẻ hết sức khốn khổ, khốn nạn, tủi nhục, bị tước đoạt hết những gì bình thường nhất của một đứa trẻ :

               + Không ai muốn thừa nhận sự tồn tại của Chí trên đời. Chí Phèo bị vứt ở một cái lò gạch bỏ hoang từ khi mới ra đời.

               + Trở thành một món hang chuyền tay, đổi chác, sống bơ vơ, vất vưởng, lớn lên thiếu thốn tình thương, phải đi ở cho nhà này đến đi ở cho nhà khác.

q  20 tuổi :

               + làm thuê cho nhà Bá Kiến, sống kiếp trâu ngựa hết sức cục nhục của người bần cố nông.

               + là công cụ để thỏa mãn dục vọng cho các ông chủ bà chủ : mộng làm giàu của Bá Kiến và sự dâm dục của bà Ba.

à Ngay từ lúc mới sinh ra, cuộc đời Chí Phèo như một con số 0 tròn trĩnh, thiếu đi điều kiện làm “giấy khai sinh” xác nhận làm người.” Lớn lên, Chí lại càng không có quyền làm chủ cả về thể xác lẫn tinh thần, sống phụ thuộc vào người khác. Chí Phèo “cùng hơn cả dân cùng”. Nếu so Chí với Chị Dậu thì Chí khổ hơn chị rất nhiều. Chị Dậu là người cùng nhất trong hạng cùng đinh mà chị còn có một chút tài sản để mà để dành, còn đằng này, cả những quyền hạn nhỏ nhoi của một con người bình thường mà Chí cũng không có, huống gì nói tới những chuyện to tát hơn. Giua dòng đời mênh mông nghiệt ngã, Chí Phèo như một con người tội nghiệp, bé nhỏ, bơ vơ “không áo cơm cù bấc cù bơ” ( Tố Hữu )

v  Sau khi đi tù về

  • Tiếng chửi của Chí Phèo :

         + chửi trời, chửi đời, chửi làng Vũ Đại với hi vọng ai đó chửi lại nhưng không ai lên tiếng cả.

          + vô cùng tức tối, đau khổ, Chí Phèo “chửi cha đứa nào không chưở nhau với hắn”

          + xoay sang chửi “đứa chết mẹ nào đẻ ra than hắn”

à Tiếng chửi của Chí Phèo tuy khách quan nhưng đầy hàm ý. Chỉ chửi, lời của Chí rơi vào trong im lặng, không ai buồn đáp lại. Mong có người đáp lại mình, dù bằng tiếng chửi – ngôn ngữ hạ đẳng nhất của con người nhưng chẳng một ai lên tiếng. Đồng loại không ai đáp trả lại Chí Phèo. Chị Dậu dù tăm tối, đau khổ, phải bán sữa bán con … nhưng linh hồn chị vẫn còn, chị vẫn là một con người đúng nghĩa. Chí Phèo vì muốn tồn tại trong xã hội phải bán linh hồn cho quỹ dữ, rồi cuối cùng bị khai trừ khỏi cộng đồng.

  • Mối tính Chí Phèo – Thị Nở :

         Cuộc gặp gỡ bớ ngờ, khá đặc biệt. Lúc đầu chỉ là chuyện bản năng của một gã đàn ông  say rượu nhưng về sau đã khơi lên ở Chí Phèo những cảm xúc rất người, từ đó khao khát hoàn lương. Cứ tưởng Chí sẽ mãi sống kiếp thú vật rồi chết bờ chết bụi ở cái xó nào đấ. Nhưng không, bằn tài năng và con tim của mình, Nam Cao đã để cho Chí trở về với kiếp người một cách tự nhiên.

         + Lần đầu tiên, sau bao năm không còn ý thức được bản than, giờ đây Chí thấy lòng bâng khuâng, mơ hồ buồn.

        + Lần đầu tiên, sau bao nhiêu năm tháng chìm trong cơn say bất tận, đây là giây phút Chí hoàn toàn tỉnh táo : lắng nghe tiếng âm thanh bình thường của cuộc sống, tiếng chim hót, tiếng anh thuyền chài khua mái chèo đuổi cá, tiếng người nói chuyện … những âm thanh này có sức vang động sâu xa trong lòng Chí – tiếng đời đanbg dội vang thiết tha trong tâm hồn một con quỹ.

        + Lần đầu tiên, Chí nhìn lại cuộc đời mình, những mơ ước từ xa xưa “hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ : chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải, chúng bỏ một con lợn nuôi làm vốn tiếng” vọng tiếng về làm cho thực tại càng đáng buồn hơn vì “hắn chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ” và cảm thấy buồn, lo sợ khi nghĩ đến tuổi già, sự cô độc, đói rét, ốm đau. Một trận ốm làm biến đổi cả sinh lý lẫn tâm lý. Lần đầu tiên Chí thoát khỏi cơn say, đối diện với chính mình và nhận ra tình trạng bi đát của bản than.

        + Đúng lúc Chí Phèo đang “vẩn vơ nghĩ mãi” thì thị Nở mang “nồi cháo hành còn nóng nguyên” vào. Việc làm này của thị khiến hắn hết sức ngạc nhiên và xúc động đến mức trào nước mắt. Bởi vì một lẽ dơn giản, đây là lần thứ nhất trên đời “hắn được được một người đàn bà cho”. Hắn thấy cháo hành của thị thơm ngon lạ lùng, làm người nhẹ nhõm. Thì ra đối với Chí, bát cháo hành không phải là bát cháo bình thường, mà trong đó hàm chứa cả tình yêu thương chân thành của thị dành cho hắn. Và như vậy, cũng có nghĩa hàm chứa cả hạnh phúc lứa đôi mà lần đầu tiên Chí có được. Bát cháo hành của Thị Nở như một liều tiên dược đánh thức bản tính con người trong trái tim một con quỹ dữ. à mong muốn chấm dứt đoạn đời thú vật.

      + Chí Phèo khao khát làm người lương thiện : Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao”. Chí Phèo mong đợi được thu nhận lại xã hội “bằng phẳng, than thiện của những người lưng thiện”, và thị Nở sẽ mở đường cho hắn, là cầu nối để hắn trở lại với đời.

  • Nhưng giấc mộng làm người lương thiện vỡ tan tành : bà cô Thị Nở phản đối kịch liệt.

      + Chí Phèo cố níu kéo thị Nở nhưng không được à khao khát làm người lương thiện lớn lao đến chừng nào.

     + Đau đớn, Chí lại uống rượu nhưng “càng uống càng tỉnh ra”, “tỉnh ra, chao ôi buồn!” : “Hắn ôm mặt khóc rưng rức” và “thoang thoảng thấy hơi cháo hành” ( lưu ý chi tiết hương cháo hành lặp lại nhiều lần nhấn mạnh niềm khao khát được yêu thương và tô đậm bi kịch tinh thần của Chí ). à Bi kịch tinh thần sinh ra l2 người, nhưng lại không được làm người. Càng uống càng tỉnh, càng ý thức rõ được sự bi đát của bản than. Trong cơn say, Chí càng thấm thía hơn tội ác của kẻ đã cướp đi của mình cả bộ mặt và linh hồn con người.

    + Tuyệt vọng, Chí cầm dao đi đòi quyền lương thiện theo cách của mình. Thay vì đến nhà thị Nở, Chí lại đến nhà Bá Kiến, giết hắn rồi tự kết liễu sau một loạt câu hỏi tỉnh táo trong giờ phút đau khổ nhất đời mình : “Tao muốn làm người lương thiện”, “Ai cho tao lương thiện?”, “Tao không thể làm người lương thiện nữa”. Chí Phèo chết bi thảm trong niềm khao khát làm người lương thiện nhưng không thể trở lại cuộc sống con người. Giết Bá Kiến không phải phản ứng của một kẻ say rượu mà chính vì mối thù hằn từ lâu trong Chí giờ đây đã bùng cháy.

à Nam Cao tả Chí Phèo trong trạng thái say mà tỉnh, để nhân vật của mình ĐI CHỆCH ĐƯỜNG NHƯNG ĐÚNG HƯỚNG. Hành động mang dao đến nhà Bá Kiến chứ không phải nhà bà cô Thị Nở chứng tỏ Chí rất tỉnh táo nhìn nhận ra kẻ đã tước đoạt đi cả cuộc đời hắn, đó chính là chệch đường nhưng đúng hướng. Hai lần trước Chí đến nhà Bá Kiến là đòi tiền, đòi cái mà xã hội vô nhân đạo ấy CÓ THỂ chu cấp cho Chí, nên Chí sồng. Còn lần này, Chí đến nhà Bá Kiến đòi lương thiện, đòi cái mà xã hội KHÔNG CÓ THỂ đáp ứng cho Chí, nên Chí phải chết. Chí Phèo giết Bá Kiết vì phẫn uất, nhưng Chí Phèo tự sát vì tuyệt vọng ( hãy thử đặt lại vấn đề : Nếu Chí không chết, Chí vẫn sống thì có thể làm một người lương thiện như mong muốn hay không ? )

à Chết trên ngưỡng cửa trở về với xã hội loaì người. Cái chết chứng tỏ niềm  khao khát sống lương thiện còn cao hơn cả tính mạng. Cái chết của Chì Phèo chính là bằng chứng đanh thép và chân thực tố cáo xã hội vô nhân đạo, đểu cán đẩy những người lương thiện như y vào con đường tội lỗi và cuối cùng phải lấy cái chết như một sự giải thoát.

      b. Tác nhân :

- Trực tiếp : bà cô thị Nở - người đại diện cho tất cả dân lảng đang sống dưới gầm trời tối sầm những áp bức nên dần vô cảm trước nỗi đau của đồng loại; đại diện cho những định kiến khắc nghiệt của xã hội không cho con người phục thiện, hoàn lương khi họ đã trót lầm lổi.

       “Thị Nở là một phát hiện lớn nhất về Chí Phèo, Từ phía dân làng, thị Nở đến với Chí , nhưng vì định kiến ác ôn mà thị phải từ chối Chí trở về với dân làng. Kẻ rút cây cầu trở lại làm người của Chí không phải là bà cô thị, hay thị, hay dân làng Vũ Đại mà chính là những định kiến đầy tàn nhẫn, ác ôn”.

- Sâu xa : xã hội thực dân phong kiến dồn con người vào nghịch lý : muốn tồn tại thì phải ác, còn muốn sống như 1 con người đúng nghĩa thì phải chết : trước đây, để bám lấy sự sống, Chí đã bán linh hồn cho quỹ dữ, nay ý thức về nhân phẩm trỗi dậy, linh hồn trở về thì Chí phải thủ tiêu sự sống của chính mình.

         c. Nhận xét

    Qua kết cục bi thảm của Chí Phèo, độc giả có thể nhận thấy cảm quan hiện thực sâu sắc của Nam Cao : tình trạng xung đột giai cấp ở nông thôn Việt Nam là hết sức gay gắt, và nó chỉ có thể giải quyết bằng những biện pháp quyết liệt..

   Như vậy, qua đoạn văn này, Nam Cao đã thể hiện tư tưởng nhân đạo độc đáo, mới mẻ: phát hiện, miêu tả phẩm chất tốt đẹp của người nông dân ngay cả khi tưởng như họ đã bị xã hội biến thành thú dữ . Chính điều đó góp phần làm nên đặc sắc cho tác phẩm.

  1. B.     CÁCH KẾT THÚC TRUYỆN

a. Ý nghĩa tư tưởng

Phản ánh chân thực, sâu sắc hiện thực xã hội :

+ Mâu thuẫn, xung đột gay gắt không thể điểu hòa giữa giai cấp thống trị và nông dân bị áp bức.

+ Những người nông dân lương thiện bị tha hóa rồi phải chết một cách thảm khốc.

+ Phản ánh hiện thực mang tính quy luật : chừng nào còn xã hội vô nhân đạo, chừng đó còn Chí Phèo.

- Tăng thêm giá trị nhân đạo :

+ Tiếng nói lên án mạnh mẽ, quyết liệt : sự thức tỉnh và cái chết của Chí.

+ Đề cao giá trị và khả năng chống trả, chiến thắng sự tha hóa

     Nếu Chí tham sống thì hẳn sự tha hóa chiến thắng, còn lương tâm đầu hang. Qua cái chết của Chí, Nam Cao thể hiện niềm tin chiến thắng vào cái thiện, BI KỊCH LẠC QUAN : dù bị dập vùi tan nát đến đâu con người cũng vươn lên sống tốt.

b. Thành công nghệ thuật

- Nghệ thuật kết cấu : vòng tròn, đầu cuối tương ứng

à Tình trạng xã hội quẩn quanh, bế tắc.

- Kết thúc không có hậu : dù Bá Kiến bị trừng trị nhưng những người như Chí Phèo vẫn không được hưởng hạnh phúc à tăng thêm giá trị nhân đạo.

- Phù hợp với mạch truyện, với tính  cách và số phận nhân vật, làm nổi bật lên 1 điều : trong xã hội bấy giờ không có chỗ cho lương thiện tồn tại.

     C. GIÁ TRỊ TÁC PHẨM

  1. 1.      GIÁ TRỊ  HIỆN THỰC

Chú ý các khía cạnh sau :

+ Phản ánh bộ mặt giai cấp thống trị : cường quyền và cầm quyền.

+ Phản ánh đời sống của người dân : tăm tối đau khổ và sự vùng dậy đấu tranh,

a. Phản ánh những mâu thuẫn, xung đột gay gắt ở nông thôn  Việt Nam trước CMT8 trên bình diện rộng lớn và tầm khát quát lớn hơn.

1. Nội bộ giai cấp thống trị : phe Bá Kiến >< nội tả

- Làng Vũ Đại – một mảnh đất “quần ngư tranh thực” ( bầy cá tranh ăn, mồi thì ít mà con nào cũng muốn có miếng mồi béo bở ), tìm cách thanh trừng lẫn nhau, lún nhau xuống bùn, luôn ra sức tác oai tác oái. Điều đáng nói là chính mâu thuẫn gay gắt giữa hai phe là nguyên nhân trực tiếp gây ra tai ương cho những người dân lương thiện.

2. Giai cấp thống trị >< giai cấp nông dân : sống lương thiện nhưng bị áp bức nặng nề

      Bá Kiến : tiêu biểu cho giai cấp thống trị

      Chí Phèo : tiêu biểu cho số phận bi thảm của người nông dân Việt Nam trước CMT8

- Về Bá Kiến : bản chất TÀN BẠO nhưng rất QUỶ QUYỆT ) khác với một số nhân vật khác như Nghị Quế, Nghị Lại ( truyện Nguyễn Công Hoan ) , dù có tham lam nhưng không xảo trá bắng Bá Kiến ). Bá Kiến giỏi che đậy. Hắn sinh ra trong gia đình 6 đời làm lý trưởng,  giỏi trong việc trị dân, có giọng quát rất sang và nụ cười Tào Tháo, có phương sách thống trị hẳn hoi : mềm nắn rắn buông, túm thằng có tóc chứ không túm thằng trọc đầu, lấy thằng đầu bò trị thằng đầu bò, dùng thằng liều trị thằng liều. Hắn hết sức khôn ngoan : tìm mọi cách đẩy người khác xuống nước rồi giả vờ vớt lên. Hãm hại người ta nhưng cuối cùng lại để người ta mang ơn mà làm việc cho hắn. Từ tội nhân mà hắn biến thành ân nhân, còn nạn nhân thì biến thành tội nhân phải chịu ơn hắn.

- Chí Phèo : nười nông dân lương thiện nhưng xui rủi bị đẩy vào con đường tha hóa để rồi bị loại ra khỏi xã hội loài người và khi thức tỉnh lương tâm phải chết một cách thảm khốc ( phân tích và lấy d.c minh họa )

à cuối cùng : cả hai đều chết.

à Mâu thuẫn, xung đột gay gắt không thể điều hòa.

- Phản ánh hiện thực mang tính quy luật : còn xã hội vô nhân đạo thì vẫn còn hiện tượng Chí Phèo hay rộng hơn là hiện tượng người thiện lương bị tha hóa rồi phải chết một cách thê thảm.

  1. 2.      GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO

a. Tình yêu thương ( hạt nhân ) : Nam Cao cảm thương sâu sắc trước những số phận đau khổ. Nhà văn dù không nói trực tiếp mà lại hết sức khách quan, khách quan tới mức sắc lạnh nhưng ân sau trong đó là một nỗi đau và niềm xót thương vô hạn về kiếp người bị tước đoạt, chà đạp về nhân hình lẫn nhân tính

          Nam Cao miêu tả Thị Nở xấu đến nỗi không còn từ nào có thể diễn tả hết cái xấu xa, dở hơi của thị. Thị càng xấu, càng dở hơi, đần độn, cứ là tác phẩm không hoàn thiện của tạo hóa thì tác phẩm càng hay. Nếu thị mà đẹp như giai nhân thì có lẽ niềm cảm thương sâu sắc về bi kịch của Chí không sâu sắc và xúc động như ta nghĩ. Một sản phẩm bị lỗi lại là thứ mà Chí ao ước, khát khao mà không có được.

b. Bản cáo trạng đanh thép xã hội bất nhân :

1. Xã hội vô nhân đạo, giai cấp thống trị đẩy những người nông dân lương thiện vào con đường tha hóa ( d/c )

2. Xã hội tiêu diệt tận cùng quyền sống của con người ( lấy 2 đoạn đời Chí Phèo làm dẫn chứng ), hủy hoại cả nhân hình lẫn tính.

    Trong Chí Phèo không bao giờ tồn tại cả nhân hình lẫ nhân tính. Muốn tồn tại nhân hình thì nhân tính mất đi, phải bán đi linh hồn của mình để tồn tại. Còn khi nhân tính trở về thì phải tự thủ tiêu cuộc sống, chết thê thảm.

c. Khẳng định, đề cao con người : bản chất lương thiện trong những con người nghèo khổ và sức mạnh của sự thức tỉnh lương tâm.

  • Bản chất lương thiện ở những con người xấu xí, kệch cỡm.
    • Chí Phèo bị chà đạp nhân hình lẫn nhân tính. Bá Kiến nhuộm đen nhân tính Chí Phèo. Trong con người tưởng như cả xác lẫn hồn đều mất đi nhưng vẫn tồn tại bản chất lương thiện. Xã hội dù khô héo tình người nhưng nhân tính trong Chí vẫn chưa cạn. Chí khóc khi được ăn cháo hành của thị Nở chính là minh chứng sinh động cho bản chất lương thiện trỗi dậy của y. Chí trở lại lương thiện bằng nước mắt. Tình thương của thị giúp bản tính thiện lương của Chí hiện hình. Chính thị là phát hiện lớn nhất về Chí Phèo. Thị dở hơi, đần độn, là sản phẩm không hoàn thiện của tạo hóa nhưng thị có cái mà cả một xã hội lạnh lùng kia không có : ấy chính là tình thương. Tình thương của thị đánh thức lương tâm Chí, cứu vớt số phận Chí, để Chí sống đúng nghĩa một kiếp người, dù chỉ có 5 ngày.
    • Sức mạnh thức tỉnh lương tâm : cái chết của Chí chính là sự chiến thắng của lương tâm. Chí Phèo gắng gượng về với xã hội con người, chỉ cần mở cửa là trở về nhưng nó lại đóng sầm lại trước mặt Chí. Nếu Chí không chết, Chí lại sẽ trở về cuộc sống của loài quỹ dữ. Chí chết trên ngưỡng cửa trở về với xã hội loài người. Sự thức tỉnh khiến y nhận ra được giá trị của sự lương thiện, thà chọn cái chết còn hơn là quay về cuộc sống loài quỹ, loài thú như trước đây. Tuy chỉ sống có 5 ngày ngắn ngủi nhưng Chí Phèo đã sống, và chết, như một con người.

d. Giai pháp xã hội : làm sao để con người được sống trong lương thiện ?

    Hãy ngăn chặn xã hội vô nhân đạo làm tha hóa con người à phải thay đổi, cải tạo xã hội để nó nhân đạo hơn. Chỉ khi đó lương thiện mới được xác lập.

  1. 3.      GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT
  2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật.

- Khắc họa cá tính bằng những chi tiết đầy ấn tượng : Bá Kiến gian hung với nụ cười Tảo Tháo, giọng nói ngọt nhạt, giọng quát rất sang, .. Chí Phèo vớing oại hình đặc biệt biệt gây ấn tượgn về sự lưu manh hóa.

- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật : dùng độc thoại nội tâm để nêu bật những toan tính của Bá Kiến, những dằn vặt, xót xa của Chí Phèo. Nam Cao thật sắc sảo, tinh tế khi phân tích diễn biến tâm lí nhân vật.

  1. Nghệ thuật dựng truyện :

- Tổ chức, sắp xếp, dẫn dắt truyện độc đáo, khéo léo, tự nhiên.

- Truyện kể linh hoạch, không theo thứ tự thời gian một chiều

- Kết cấu vòng tròn gợi nhiều suy nghĩ cho người đọc.

  1. Nghệ thuật dùng ngôn từ :

- Ngôn từ sống động, tự nhiên, phù hợp cá tính riêng của từng nhân vật.

- Ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa, độc thoại nội tâm kết hợp khéo léo với văn tự sự tạo hiệu quả cho việc đi sâu phân tích tâm lí nhân vật.

III. TỔNG KẾT

        Tác phẩm Chí Phèo mang giá trị nhân đạo sâu sắc, thể hiện tấm lòng yêu thương trân trọng của Nam Cao đối với những người khốn khổ; đồng thời là lời kết tội đanh thép xã hội thực dân – phong kiến đẩy con người vào bi kịch cùng cực, bế tắc, tuyệt vọng.

                                                                                                          ĐỀ1

                              Phân tích ý nghĩa bát cháo hành trong tác phẩm Chí Phèo

Không hiểu sao khi đọc “Chí Phèo” của Nam Cao tôi luôn luôn hình dung ra một con đường in bóng hình những bước chân loạng choạng, ngật ngưỡng đầy phẫn uất của một Chí Phèo say – tỉnh. Và trên con đường – hành trình đời đầy nỗi đau và bi kịch ấy, những giây phút hạnh phúc, những cử chỉ yêu thương mà Chí được hưởng thật hiếm muộn như những giọt nước trên sa mạc mênh mông. Song dù chỉ là một giọt nước giữa sa mạc đời bao la của Chí thì bát cháo hành của thị Nở vẫn làm tròn nhiệm vụ của một nguồn nước mát lành góp phần thức tỉnh, hồi sinh tâm hồn Chí sau bao tháng năm đọa đày trong kiếp sống của con quỷ dữ. Cùng với những ám ảnh về bi kịch nhân sinh của con người, hương cháo hành thoang thoảng trong “Chí Phèo” mãi mãi còn vương vấn trong hồn người đọc như một biểu tượng của tình cảm nhân đạo sâu sắc đậm đà trong siêu phẩm này.
Hình ảnh “bát cháo hành” mà nhân vật thị Nở mang cho Chí Phèo trong truyện gắn liền với mối tình “đôi lứa xứng đôi” Chí Phèo – thị Nở. Trước khi gặp thị, Chí đã từng là một người nông dân lương thiện, hiền lành như cục đất. Con người ấy dù có tuổi thơ bất hạnh, bị chuyên tay như một món hàng nhưng vẫn giữ trọn những vẻ đẹp tâm hồn cao quý, thiêng liêng của một đời lương thiện, biết phải trái, đúng sai, biết tự trọng. Nhưng bàn tay của bọn cường hào phong kiến (mà đại diện là Bá Kiến) và cái nhà tù thực dân không cho con người hiền ấy sống đời lương thiện. Chúng hùa với nhau, tước đi của Chí cả nhân hình, nhân tính của người nông dân lương thiện, để biến anh Chí thành thằng Chí Phèo, biến anh canh điền hiền lành, chăm chỉ thành kẻ lưu manh có mỗi một nghề là rạch mặt ăn vạ. Sau 7, 8 năm đi khỏi làng Vũ Đại, Chí Phèo hồi hương trong tình cảnh vô sản “trần như nhộng”. Sự hiện hữu của Chí Phèo ở làng Vũ Đại là một con số “không” tròn trĩnh, không nhà không cửa, không bạn bè người thân, không một tấc đất cắm dùi, không được thừa nhận là một con người. Đó là cái bi kịch đau đớn của con người cô đơn đi giữa đồng loại. Chí chửi mong nhận được sự hồi đáp – dù là sự hồi đáp thấp hèn nhất nhưng cũng không có. Chẳng ai cho Chí chút quan tâm, không ai coi hắn là người. Hắn chửi vào khoảng không bao la của sự vô tình, lạnh lẽo. Hắn chửi thì tai gần miệng đấy, hắn lại nghe. Chỉ còn một thằng say rượu cùng ba con chó dữ. Còn gì thê thảm hơn thân phận của con người ấy – thân phận của con người – vật.
Cái lần đầu tiên ra tù rồi đến nhà Bá Kiến chửi đổng hình như Chí Phèo đã lờ mờ nhận ra kẻ thù đã dìm mình xuống vũng bùn tha hóa. Nhưng ở cái mảnh đất "quần ngư tranh thực" này, trước một Bá Kiến gian hùng, "khôn róc đời", Chí Phèo thật thảm hại biết bao. Chí không những không trả thù được mà còn trở thành tay sai đắc lực cho Bá Kiến – kẻ thù của mình, tiếp nối đời Năm Thọ, Binh Chức. Từ đó Chí Phèo trượt dài trên con dốc tha hóa, xuống đáy vực của nó để thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Người ta tránh hắn, sợ hắn vì hắn làm bao nhiều việc cướp bóc, đốt phá, làm chảy máu và nước mắt của bao người lương thiện. Hắn làm tất cả những việc ấy trong cơn say triền miên, vô tận, đến nỗi chính hắn không biết về chính bản thân mình. Gương mặt quỷ dữ, hành động tác quái theo kiểu quỷ dữ của Chí đã khiến con đường trở về của Chí cụt lối. Cánh cửa của xã hội lương thiện đã đóng sầm trước mặt hắn khi hắn hồi hương thì đến nay nó được chèn cài kỹ lưỡng, im ỉm như một khối băng. Chí hiện diện như một bóng hình hắc ám đi bên lề cuộc sống của làng Vũ Đại.
Thế nhưng, phía cuối đường hầm vẫn còn chút ánh sáng le lói để Chí hy vọng. Trong cái làng Vũ Đại ấy vẫn còn một con người nhìn đến Chí, không sợ Chí Phèo và luôn đi qua vườn nhà Chí để kín nước. Đó là một người đàn bà khốn nạn, khổ đau, chịu nhiều thiệt thòi – thị Nở. Chao ôi! Sao Nam Cao lại dùng những lời văn lạnh lùng đến tàn nhẫn, mỉa mai để tả người đàn bà khốn khổ ấy? Đã mang một dung nhan "xấu ma chê quỷ hờn", Thị lại còn dở hơi "ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích", mà thị lại còn nghèo nếu trái lại thì ít nhất có một người đàn ông khổ sở. Chưa hết, thị Nở còn có dòng giống mả hủi nên người ta vẫn tránh thị như tránh một con vật rất tởm. Ngoài 30 tuổi thị vẫn chưa lấy chồng trong khi ở cái làng Vũ Đại người ta kết bạn từ lúc lên tám, lên chín, có con từ lúc 15, không đợi đến năm hai mươi đẻ đứa con thứ nhất. Trong tình hình đó ta có thể nói quách thị không có chồng.
Ông trời nhiều khi run rủi, thương người nhưng thực sự ở trường hợp Chí Phèo – thị Nở này ta có thể nói ông thương hay ông ác, gây nghịch cảnh trớ trêu? Trách trời chi cho xa, trách nhà văn Nam Cao sao không tác thành cho mối tình "đôi lứa xứng đôi" ấy? Song làm sao mà tác thành được, ai cho phép họ đến với nhau. Cả một xã hội với bao định kiến không cho họ đến với nhau, không cho họ hạnh phúc trọn vẹn. Xét đến cùng ta mới thấy Nam Cao thương người, nếu không có ngòi bút của ông thì những kẻ tha hóa như Chí Phèo, những người đàn bà cùng khốn như Thị Nở chẳng bao giờ được biết đến chút ít hạnh phúc của tình ái. Họ đã gặp nhau trong một đêm gió mát, rười rượi ánh trăng ở vườn chuối cạnh bờ sông mà những tàu chuối bị gió bay lại giẫy lên đành đạch như là hứng tình. Khung cảnh lãng mạn đang tác thành cho họ. Chí Phèo uống rượu ở nhà Tự Lãng đã say từ nửa đường; thị Nở đi kín nước cũng hớ hênh tựa vào gốc chuối ngủ trong cái gió mát như quạt hầu. Hai con người dị dạng, hai số phận trớ trêu đã trải qua một đêm tình lãng mạn đúng kiểu "Chí Phèo – Thị Nở". Nhưng Nam Cao dựng lên mối tình "người – ngợm" này không phải để câu khách rẻ tiền mà làm tỏa sáng tình người, tình yêu thương và sự săn sóc ấm áp của một người đàn bà xấu xí ngoại hình nhưng lại có một tấm lòng vàng.
Đêm tình ấy khiến thị Nở xao xuyến, suy nghĩ nhiều, đặc biệt về Chí Phèo, về trận ốm của Chí. Thị về nhà sau cuộc tình, sau khi dìu Chí vào nhà và trằn trọc không sao ngủ được. Thị nghĩ "thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi là hôm nay nhọc nhừ". Và thị thấy phải cho hắn ăn một tí gì mới được, "Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà". Thế là vừa sáng thị đã chạy đi tìm gạo để nấu cháo cho Chí. Hành thì nhà thị may lại còn. Nam Cao đã miêu tả chiều sâu tâm lý nhân vật với những rung cảm, nhưng suy tư tinh tế. Tâm lí của thị Nở vừa rất ngô nghê lại vừa sâu sắc. Đó là rung cảm, những tình cảm tha thiết của một người đàn bà, nhất là một người đàn bà đang yêu và muốn chăm sóc cho người yêu của mình. Thị không dở hơi mà ta thấy thị rất lo cho Chí, lo với tình cảm của nhân tình, nhân ngãi, của người làm ơn và cũng là của người chịu ơn. Thị nghĩ: "mình bỏ hắn lúc này cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau như "vợ chồng". Tiếng "vợ chồng" thấy ngường ngượng mà thinh thích...". Thiên tính nữ, thiên chức của người đàn bà thức dậy trong thị. Thị khao khát hạnh phúc, tình yêu như mọi người, dù chỉ là làm vợ của thằng... Chí Phèo. Cho nên bát cháo hành của thị Nở đem cho Chí không chỉ là trách nhiệm mà còn là cả một tấm lòng. Hơn tất cả những người đẹp đẽ ở làng Vũ Đại, thị có một tấm lòng vàng, tấm lòng chân thành và cao cả. Trong thâm tâm của thị, thị lo cho Chí, một nỗi lo thực sự của những người thân yêu dành cho nhau. Thị còn thấy thương Chí: "cái thằng liều lĩnh ấy kể ra thì đáng thương, còn gì đáng thương bằng đau ốm mà nằm còng queo một mình". Đồng thời bát cháo ấy còn có lòng yêu, tình yêu: "Thị thấy như yêu hắn: đó là cái lòng yêu của một người làm ơn. Nhưng cũng có cả lòng yêu của một người chịu ơn".
Cho nên, thị đem cho Chí nồi cháo hành còn nóng nguyên để hắn ăn cho khỏi ốm. Hơn một chi tiết nghệ thuật, bát cháo hành của Thị Nở đã trở thành một biểu tượng nghệ thuật, một siêu mẫu trong văn học hiện đại Việt Nam. Bát cháo ấy do thị Nở nấu có thể chẳng mấy ngon nhưng quan trọng nó là tình thương, tình yêu, tình người ấm áp. Nó là sự chăm sóc ân cần mang theo những nỗi lo âu thực sự của tấm lòng thị Nở dành cho Chí. Đặt trong quãng đời dài dặc đầy bi kịch của Chí, trong hoàn cảnh dưới đáy hiện tại của Chí, bát cháo ấy là tình người hiếm hoi mà Chí nhận được, là hạnh phúc tình yêu muộn mằn, quý giá vô ngần mà lần đầu tiên trong đời hắn được hưởng. Hương vị cháo hành – hương vị tình yêu tỏa sáng, vượt lên hoàn cảnh, lên trên mọi định kiến của xã hội. Nó mãi mãi còn thoang thoảng, lan tỏa theo suốt cuộc đời của Chí. Một điều độc đáo ở đây là Nam Cao đã miêu tả quá tình diễn biến tâm lý nhân vật Thị Nở rất tinh, rất sâu theo một tiến trình, một quá trình. Cách miêu tả tâm lý ấy cộng hưởng cùng nghệ thuật đối lập (giữa ngoại hình và tâm hồn nhân vật Thị Nở) khiến mỗi người đọc cũng xúc động rưng rưng cùng nhân vật. Hóa ra Nam Cao không thóa mạ, hay hạ thấp con người bằng những nét vẽ ngoại hình trần trụi, mà ngược lại, ông đề cao, tôn vinh con người. Vẻ đẹp cao quý nhất của con người là vẻ đẹp tâm hồn, là tình người, là tấm lòng cao cả. Đó là tiêu chuẩn, là thước đo giá trị người của con người. Nhìn như thế, ta sẽ thấy Thị Nở là người phụ nữ đẹp nhất làng Vũ Đại và đẹp nhất trong văn học Việt Nam.
Nói Thị Nở đẹp không hề quá đáng bởi bát cháo hành kia đâu chỉ là tình thương, tình yêu, là sự chăm sóc ân cần mà nó có tác dụng diệu kỳ – cảm hóa con người, thức tỉnh phần người, phần nhân tính bị vùi lấp bao lâu nay trong Chí Phèo. Nói đúng hơn là Thị Nở đã thức tỉnh Chí, cứu vớt Chí, làm hồi sinh tâm hồn, nhân tính trong Chí. Điều đó không phải ai cũng làm được. Và như thế, ta thấy chi tiết bát cháo hành không thể thiếu trong tác phẩm. Nó thể hiện tình cảm, tư tưởng nhân văn sâu sắc của nàh văn Nam Cao. Ông luôn luôn băn khoăn, trăn trở về vấn đề nhân tính của con người. Ông luôn mang trong mình niềm tin mãnh liệt vào con người, vào phần lương thiện thiêng liêng, quý báu trong mỗi con người. Thiên lương ấy không bao giờ bị mất đi, không một thế lực nào giết được. Nó như một thứ lửa luôn âm ỉ cháy trong trái tim của con người, kể cả những con người ở giữa vũng bùn lầy của sự tha hóa như Chí Phèo – không còn chút nhân hình, nhân tính nào nữa – theo cái nhìn từ bên ngoài, từ người ngoài.
Những dòng Nam Cao miêu tả Chí Phèo ăn cháo hành có thể nói là những dòng văn sâu sắc, xúc động nhất tác phẩm. Nhìn thấy bát cháo hành "Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Xưa nay, nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì...". Chí đi từ ngạc nhiên đến xúc động nghẹn ngào. Đây là lần thứ nhất trong đời hắn khóc sau những năm tháng bị đọa đày và cũng là lần thứ nhất trong đời hắn nhận được một thứ người ta cho, cho vô tư, không tính toán. Hắn không phải dọa nạt hay cướp giật mà vẫn có được. Quan trọng, đây là lần đầu tiên trong đời Chí được một người đàn bà quan tâm, săn sóc, dành tình cảm cho; cũng là lần đầu tiên sau khi ra tù Chí được một con người nhìn nhận mình như một con người, đối xử với mình theo cách con người dành cho nhau. Và hắn thấy thị có duyên bởi trong mắt kẻ si tình người yêu của mình bao giờ chẳng đẹp, chẳng duyên. Để rồi sau đó, Chí Phèo tỉnh, tỉnh để suy tư, chiêm nghiệm. Chí thực sự đã tỉnh rượu, đã tỉnh ngộ và ý thức được về cuộc sống sau những tháng năm say triền miên, vô tận, say để không biết có sự hiện hữu của mình trên cõi đời. "Hắn thấy vừa vui, vừa buồn. Và một cái gì nữa giống như là ăn năn". Chí cảm nhận được tất cả vị thơm ngon của nồi cháo hành: "Trời ơi cháo mới thơm sao! Chỉ khói xông lên mũi cũng đủ làm người nhẹ nhõm. Hắn húp một húp và nhận ra rằng: Những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo hành rất ngon...". Hơi cháo hành, bàn tay chăm sóc và tình cảm của thị Nở đã làm cho Chí tỉnh, tỉnh để mà nhận ra mình, nhận thức về những việc mình đã làm. Hơi cháo làm Chí nhẹ người, chí khỏi ốm để ăn năn, sám hối. Hơn lúc nào, Chí cảm thấu tình cảnh thê thảm, bi đát của mình cho nên hắn vừa vui lại vừa buồn. Vui vì tình yêu, hạnh phúc muộn mằn, dù muộn nhưng đã đến; buồn vì thân phận, vì cuộc sống quá loài vật của bản thân. Cháo hành rất ngon nhưng "tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm vị mùi cháo?". Hắn hỏi rồi hắn tự trả lời: "có ai nấu cho mà ăn đâu? Mà còn ai nấu cho mà ăn nữa! Đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một bàn tay "đàn bà". Thê thảm quá! Bi kịch quá! Xót xa muôn phần! Một chút gì như cay đắng nghẹn lòng nữa! Chí nghĩ đến những tháng ngày nhục nhã bị bà ba nhà Bá Kiến – "con quỷ cái" cứ hay gọi hắn đấm lưng, bóp chân "mà lại cứ bắt bóp lên trên, trên nữa". Hắn thấy nhục chứ sung sướng gì. "Hai mươi tuổi người ta không là đá, nhưng cũng không hoàn toàn là xác thịt. Người ta không thích những cái người ta khinh ...". Rõ ràng đến đây, Chí hiện lên là một chân dung con người đầy đủ, vẹn toàn có cả quá khứ, hiện tại, có những suy nghĩ sâu xa, những tâm trạng phong phú, ý thức đầy đủ về bản thân. Người nông dân lương thiện trong Chí đang trở về sau những năm tháng dài bị đi đày xa tắp. Nhưng có ai nhận thấy đâu, họa chăng chỉ có thị Nở vì thị thấy chí rất hiền, "ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người?"
Nam Cao vốn là một nhà văn có cái nhìn đời thấu suốt, tinh sắc. Ông không dừng lại ở sự thức tỉnh của Chí Phèo nhờ bát cháo hành mà ông còn đưa người đọc đi xa hơn đến chân trời ước mơ, hy vọng của Chí. Với ước mơ quá khứ sống dậy, ước mơ trong hiện tại bùng cháy thiêu đốt tâm can, Chí đã thực sự hồi sinh, là một con người hoàn toàn theo đúng nghĩa của hai chữ CON NGƯỜI viết hoa (chữ của M.Gorki).
Bát cháo húp xong, Thị Nở đỡ lấy bát và múc thêm bát nữa. Hắn thấy đẫm bao nhiêu mồ hôi, những giọt mồ hôi to như giọt nước. Chí biết mình đã đến cái dốc bên kia của cuộc đời và chí thấy "thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn sao người khác không thể... Họ sẽ nhận lại hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện". Hạnh phúc chớm nở như hoa hàm tiếu và hy vọng được nhen lên rồi bùng cháy mãnh liệt như ngọn lửa được tiếp ôxi. Chí khao khát cuộc đời lương thiện, muốn làm hòa với mọi người. Thị Nở sẽ là cầu nối, là hy vọng, mở ra cánh cửa của thế giới lương thiện vẫn đóng im ỉm cho Chí. Bát cháo hành của tình yêu, tình người đã làm tươi lại, thanh lọc tâm hồn Chí. Cái ước mơ của Chí rất giản dị mà thiêng liêng, cao cả xiết bao. Nó mang tư tưởng nhân văn sâu sắc, mới mẻ của nhà văn Nam Cao. Bởi đã là con người, dù dị dạng, dù tha hóa nhưng họ vẫn có quyền được sống lương thiện, vẫn không thôi ước mơ, không hết sự khát thèm cuộc đời bình dị trong hạnh phúc và tình yêu.
Song xã hội lương thiện mà Chí Phèo thấy bằng phẳng kia không hề bằng phẳng. Nó còn bao định kiến, bao sự cách ngăn, bao điều nghi kỵ. Tất cả đã không cho Chí một cơ hội nào trở về cuộc đời bình thường như bao người bình thường. Bị thị Nở cự tuyệt, hắn phẫn uất, cùng cực tìm đến rượu. Nhưng hắn "càng uống lại càng tỉnh ra". "Hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành". Hơi cháo hành ấy là dư ảnh của bát cháo kia xuất hiện lần cuối để giữ Chí lại bên bờ tỉnh, để hắn tự ngấm, tự thấm bi kịch nhân sinh cuộc đời. Tất cả hy vọng của Chí đã tan biến theo làn khói hành mong manh, hư ảo. Nhưng hắn không thể sống như trước nữa vì hắn đã tỉnh, hắn vẫn không thôi ước mơ. Chí khóc rưng rức trong tuyệt vọng, trong những tỳ vết tâm hồn, những vết cứa, vết xước của tội ác trong tim hắn biểu hiện lên khuôn mặt dị dạng của hắn vĩnh viễn không thể mất đi. Tất cả đưa Chí Phèo đến kết cục bi thảm, cùng cực khiến người đọc bao năm nay vẫn thôi day dứt trong ám ảnh về những câu nói của Chí: "Ai cho tao lương thiện? ... Tao không thể làm người lương thiện nữa..."
Mỗi tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật song chỉnh thể ấy chỉ có được từ sự phối hợp hài hòa các yếu tố nhỏ hơn, thậm chí chỉ là một chi tiết. Một chi tiết nhiều khi mang sức nặng, cất chứa toàn bộ tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm, là chìa khóa thâm nghập vào thế giới nghệ thuật trong tác phẩm. Chi tiết bát cháo hành mà nhân vật Thị Nở mang cho Chí Phèo trong tác phẩm "Chí Phèo" của Nam Cao thật ấn tượng, mang nhiều ý nghĩa nghệ thuật sâu sắc. Nó thúc đẩy sự phát triển, tạo bước ngoặt cho cốt truyện. Đồng thời, nó cũng đầy ám gợi để khắc họa sắc nét, tinh tế thế giới tâm hồn, diễn biến tâm trạng phong phú, phức tạp của các nhân vật. Từ đó, chi tiết làm bật nổi tính cách và bi kịch của các nhân vật ấy như những hồi chuông gióng giả, vang vọng đầy ám ảnh về con người. Bát cháo hành của thị Nở có thể không thể toàn vẹn, thơm tho như chính con người nhân vật nhưng nó là bát cháo của tình yêu thương, của tình người ấm áp, của tình cảm nhân đạo sâu sắc và mối quan hoài thường trực mà nhà văn Nam Cao dành cho con người, nhất là con người có số phận bi kịch. Chính cái nhỏ nhoi, bình dị ấy là một trong những nhân tố quan trọng tạo nên tầm vóc kinh điển cho kiệt tác "Chí Phèo".

                                            ĐỀ 2

“Tao muốn làm người lương thiện... Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa…”. Câu nói cuối cùng của Chí Phèo đã bộc lộ rõ chủ đề tác phẩm. Hãy phân tích và chứng minh

Đọc Chí Phèo của Nam Cao đọng lại trong tôi là cái kết của câu truyện, một kết cục bi thảm và tất yếu dành cho nhân vật chính, Nhưng đó cũng là một cái kết đầy tính nhân đạo cao cả:

"Tao muốn làm người lương thiện.

- ...

- Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa! Biết không! Chỉ có một cách... biết không... Chỉ còn một cách là... cái này! Biết không!..."

Nhận ra điều ấy, Chí Phèo càng ý thức được "Tao không thể là người lương thiện nữa". Dường như đây không còn là lời mà Chí nói với Bá Kiến nữa, đó là lời hắn nói với chính mình. Trước đó hắn không hề biết đến cái gọi là lương thiện, cũng không biết mình đã mất đi những cái cơ bản nhất trong một con người. Giờ đây khi nhận ra thì cũng là lúc hắn mất tất cả. Và cái chết là lối thoát Chí chọn cho mình, để chứng thực cho sự nguyên vẹn của cái gọi là lương thiện. Có lẽ khi hắn nhận ra mình không thể lương thiện được công là lúc hắn hiểu sự lương thiện không thể dung nạp những kẻ như hắn.

Những câu nói của Chí Phèo khép lại cuộc đời đen tối của hắn nhưng dội lại những năm tháng hắn đã sống, gợi lại những kí ức đau thương và cả nỗi ngọt ngào mà mới hồm qua, hôm kia thôi hắn còn được hưởng nhưng hôm nay đã tuột khỏi tầm tay. Đó vừa là lời tố cáo xã hội lại vừa như một tiếng nói khẳng định lại bản chất của Chí Phèo trong ý thức rất rõ rệt của hắn. Câu chuyện với bao nhiêu chi tiết, tình huống như gói gọn, đọng lại ở mấy câu nói ấy. Người ta đọc được ở đó những ý định tâm huyết của Nam Cao khi viết Chí Phèo.

Dọc theo hành trình cuộc đời Chí Phèo, ta sẽ thấy những lời nói cuối cùng hắn như một sự tổng kết về số phận của mình, một lời trăng trối mang tính triết lí và nhân bản rất cao. Chí cùng từng là một người lương thiện khi hắn còn là một nông dân hiền lành đi ở cho nhà Bá Kiến. Nhưng hắn đã thực sự tha hóa, mất cả nhân hình lẫn nhân tính từ khi đi tù về. Tình yêu với thị Nở chính là một sự thôi thúc, cảm hóa chất lưu manh trong con người hắn. Nhưng tiếc rằng hắn đã lấn sâu trong tội lỗi, cho nên dù có ham muốn được trở lại làm người bình thường thì cũng không được nữa. Ai đó sẽ cho hắn lương thiện?

Chí Phèo là một thằng lưu manh cùng hơn cả dân cùng. Có lẽ hắn cũng ý thức được điều ấy trước khi kết liễu đời mình. Thực tế khắc nghiệt đến mức một thằng liều quá nửa đời người như hắn vẫn phải nhận ra. Nam Cao đã đặt Chí Phèo trong một không gian thu nhỏ - làng Vũ Đại - nhưng có sức bao quát lớn: xã hội đương thời. Hãy cứ coi Vũ Đại chỉ là một làng xã nhưng chớ coi thường phạm vi của nó. ở đó hội tụ những thủ tục, nề nếp, trật tự và những mối quan hệ. Trên cùng của hệ thông làng xã là cụ Bá Kiến ăn ngôi trên chỉ từng được mệnh danh là "lí trưởng, chánh tổng, bá hộ, chánh hội đồng, kì hào, huyện hào, Bắc Kì nhân dân đại biểu, khét tiếng đến cả trong hàng huyện. Sau cụ Bá là hàng loạt phe cánh cường hào như một bầy cá tranh mồi dồn lại để bóc lột nhân dân nhưng vẫn ngấm ngầm chia rẽ, mưu hại nhau. Trong cái vòng vây ấy, những người dân chứ chưa nói đến Chí Phèo đã khổ cực lắm rồi. Hạng nông dân như Chí là hạng không được chút quyền hạn nào trong làng, không cha mẹ, người thân thích, không mảnh đất cắm dùi, không đồng bạc trong tay thì thử hỏi đâu là quyền sống? Cái cùng cực của Chí Phèo là cùng cực của một kẻ chỉ có thể chấp nhận chứ không có quyền thắc mắc, phản đối, chống lại

Nam Cao đặt biệt chú ý đến cụ tiên chỉ của làng Vũ Đại, điều hành mọi quyền bính trong làng. Dưới ngòi bút của nhà văn, hình ảnh cụ bá hiện lên với những dáng nét sắc thái rất đậm, vừa mang đầy quyền lực mà vẫn không để lộ cái bạo tàn, hách dịch. Cụ bá không có cái thô lỗ, ngu dốt của những tên trọc phú khác ấy là bóc lột người một cách cổ tiền, thô sơ. Cụ có mưu mẹo của cụ, nó hình thành trong lời ăn, tiếng nói rất đỗi khôn ngoan của cụ, những thủ đoạn mà cụ bày ra thường chỉ làm cho con mồi mắc bẫy chứ không bao giờ cụ bể mặt "cụ vẫn tự hào vì cái cười hơn người của mình". Trong cái cười của Bá Kiến ẩn chứa bao nhiêu là xảo quyệt, gian manh, bao nhiêu mưu kế chưa được thực hiện. Hắn đã biến Chí Phèo từ một anh nông dân hiền lành thành một tên tù khổ sai với bộ dạng không còn là người nữa. Hắn đã giam hãm Chí Phèo trong nhà tù của luật pháp, hắn lại còn giam hãm Chí lần thứ hai, lâu dài hơn, trong nhà tù không vách, không xà lim, song sắt, ấy là làng Vũ Đại và sự ghê lạnh của mọi người. Ớ đó Chí Phèo là một tay sai đắc lực cho hắn. Trước Chí Phèo, Bá Kiến đã từng biết cách cai trị "những thằng liều" như Năm Thọ, Binh Thức, hắn có thừa kinh nghiệm để hiểu rằng. "Hãy ngâm ngầm đẩy người ta xuống sống nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn. Hãy đập bàn, đập ghế, đòi cho được năm đồng, nhưng được rồi thì lại vứt trả lại năm hào vì "thương anh túng quá"!” Những đồng bạc của hắn, những cái cười nhạt mà khanh khách, cái liếc mắt, lời quát mắng dọa nạt cùng những câu dịu giọng chính là cái bẫy để che mắt Chí Phèo, hòng lợi dụng "máu cùn" trong những thằng liều lĩnh "lúc nào cũng có thể cầm dao đâm người hay đâm mình". Sự hiện diện của Bá Kiến càng đậm nét thì cái hệ thông thông trị làng xã Việt Nam càng lộ rõ bàn chất xấu xa, bỉ ổi của nó. Đó là cái chôn mà Chí Phèo không bao giờ có thể tìm thấy cái gọi là luơng thiện.

Không ai cho Chí Phèo luơng thiện bởi vì hắn bị những lừa lọc, gian xảo bao vây xung quanh; những trò chém giết rạch mặt ăn vạ, xin đểu, ăn cướp giữa ban ngày vốn không phải là điều lạ lẫm đô! với Chí Phèo. Nhưng có một điều mà Chí Phèo chỉ có thể cảm nhận, chứ không nắm bắt được hình hài một cách cụ thể, đó là sự cô đơn, lạc lõng giữa mọi người. Đã trắng tay, không nơi nương tựa, Chí lại không có lấy một ai để ý. Những người bình thường đều xa lánh hắn. Sự lương thi)n xa lánh hắn. Không ai nghe hắn chửi, hắn không có ai để mà chửi. Đô! tượng chửi của hắn là tất cả mọi người, thiên nhiên, trời đất, là vô tận mà không là ai cả, là cái gì cụ thể cả. Thậm chí khi "hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại" thì "cả làng ai cũng nghĩ chắc nó trừ mình ra". Càng vì thế tiếng chửi càng trở thành ngôn ngữ riêng để Chí Phèo tự trấn an mình. Nó như một phản ứng quen thuộc giúp Chí quên đi sự xa lánh của mọi người. Hắn chửi để còn cảm giác sẽ có ai đó nghe được lời của mình. Dường như chưa đủ Chí tìm đến rượu. Đô! với hắn ngày tháng, tuổi tác đều không có nghĩa lí gì, cả cuộc đời hắn là một cơn say bất tận, "mênh mông", "hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say". Sau những câu văn Nam Cao, ta cảm thây rất rõ bước đi thất thểu, xiêu vẹo, cái giọng lè nhè, cùng cục của một con ma men. Ớ đâu Chí Phèo xuất hiộn là ở đó có tiếng chửi và cơn say rượu. Nếu vũ khí của Bá Kiến là nụ cười Tào Tháo thì vũ khí của Chí Phèo là hai thứ ấy. Hắn say để quên đi sự tồn tại của mình, quên đi quá khứ hiện tại, những vết rạch mặt, những vũng máu, những giọt nước mắt khổ sở của bao người dân vì hắn. Và một điều Chí rất rõ, ấy là khi tỉnh táo "hắn cảm thấy mình trơ trọi". Mâu thuẫn trong con người Chí Phèo chính là mâu thuẫn giữa nỗi sợ sệt cái mình có với sự liều lĩnh. Cho nên càng sợ hắn lại càng muốn quên, muốn sống. Chính bản thân Chí Phèo đã không nhận thức được ý nghĩa của cuộc sống, hắn không tự mình tìm đến, tạo cơ hội cho lòng tốt phát sinh thì làm sao có được sự lương thiện?

Cuộc sống chỉ thực sự mỉm cười với Chí khi đời hắn có thị Nở. Sự xuất hiện của thị cùng với tình yêu đã hoàn sinh cho hắn. Hình ảnh của thị Nở như một điểm sáng trong câu truyện một vị cứu tinh trong cuộc đời u ám, triền miên say của Chí Phèo. Mọi mâu thuẫn, xung đột, sự thay đổi lớn của truyện đều xuất phát từ thị Nở. Có thể nói là phương tiện để Nam Cao đưa Chí Phèo trở về khát vọng hoàn lương.

Không cần biết đến một thị Nở dở hơi, một người đàn bà xấu như ma chê, quỷ hờn. Có cái mặt là "một sự mỉa mai của hóa công", "bề ngang hơn bề dài", Chí Phèo đã yêu và tình yêu ấy giúp hắn nhận thức rõ hơn về sự tồn tại của mình. Lần đầu tiên trong hắn nảy sinh những cảm xúc, tình cảm của một người bình thường, không say rượu, không chửi bới, hắn "bâng khuâng", "mơ hồ buồn", "nao nao buồn". Thử tưởng tượng xem một con ma rượu mà cho đến lúc này cũng "sợ rượu như những người ôm thường sợ cơm". Tinh yêu khơi dậy trong hắn ý thức về' bản thân, dù chỉ là "mơ hồ" nhưng hắn củng hiểu đó là cái buồn của một con người. Hắn cảm thấy xung quanh đang thay đổi, xôn xao, rạo rực. Một tiếng chim vui vẻ, những tiếng người cười nói, tiếng mõ... đối với hắn như là điều lạ lẫm, hấp dẫn. "Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có". "Chí Phèo chưa bao giờ nhận thấy thế bởi chưa bao giờ hắn hết say". Và lúc này khi có đến 5 ngày không say rượu, hắn lắng nghe thế giới bằng tất cả lòng mình, cảm nhận và tận hưởng như một đứa trẻ mới chập chững biết đi. Thế giới trong mắt hắn là hàng chuỗi những điều kì diệu, mới lạ. Cái ngạc nhiên của Chí lên đến cao độ khi hắn nhận được sự chăm sóc từ Thị Nở: bát cháo hành. Hắn ngạc nhiên và "thấy mắt mình ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Xưa nay nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì. Hắn vẫn phải dọa nạt hay là giật cướp". Bát cháo gợi mở trong hắn những tia sáng về sự tốt đẹp, quan tâm, săn sóc của con người trong cuộc sống. Kẻ cùng đinh, liều lĩnh ấy nhận ra một chân lí giản đơn:"Những người suôt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo ăn rất ngon". Cái nhận thức có vẻ ngây ngô và hiển nhiên ấy là đúc rút đầu tiên của Chí Phòo trong quãng đời bị tha hóa. Phải chăng đó chính là tiền đề cho sự trỗi dậy mạnh mẽ khát vọng làm người trong Chí. Càng tiếp xúc với thế giới một cách tỉnh táo, Chí Phèo càng khám phá ra những điều mới mẻ, tô't đẹp, trong hắn càng đậm thêm cái khái niệm về cuộc sống. Chí nhớ lại quãng đời cũ và so sánh giữa ngày đó với bây giờ. "Hắn muôn làm nũng với thị Nở như với mẹ". Rồi "hắn thấy thèm lương thiện". Cao hơn, Chí muôn làm một người để yêu: "Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui". Tâm thế của Chí Phèo được nâng dần lên. Cái buồn hòa quyện để nâng niềm vui của Chí lên mỗi lúc một cao hơn. Nhà văn đặc biệt chú ý miêu tả những biến thái, dù là rất nhỏ trong tâm trạng nhân vật. Chỉ một phát hiện của Chí Phèo về bát cháo hành cũng đủ để ta nhận ra ham muôn sống của hắn rồi; nó xóa đi những năm tháng khổ đau cũ trong cuộc đời của hắn, lấp đi cái lưu manh, liều lĩnh hàng ngày và mở ra một hi vọng về một thế giới đổi thay tốt đẹp, thế giới của lương thiện. Và cánh cửa lương thiện dường như đã mỉm cười với hắn. Không ai cho Chí Phèo lương thiện, điều đó không có nghĩa là hắn đã mất đi bản chất lương thiện. Ước mong về một cuộc sống bình dị ngày nào đã trở lại với hắn. Thị Nở đã khơi dậy ước mong ấy giữa một đông hỗn tạp, gai góc và phủ lên tâm hồn Chí một cái nhìn đầy lạc quan.

Nhưng sự xuất hiện của thị Nở như một tia sáng lóe lên rồi lại vụt tắt trong cuộc đời Chí Phèo. Người đàn bà ấy giông như một cách thức để Nam Cao soi rọi ánh sáng lương thiện vào tâm hồn Chí, tái hiện lại những phẩm chất người trong hắn để càng nhấn mạnh hơn bi kịch của hắn. Bởi lẽ Chí "không thể làm người lương thiện được nữa rồi". Thị Nở, chỗ dựa cuối cùng của hắn, đã từ bỏ hắn. Hắn thấy mình lâm vào bi kịch của những ngày tháng cũ, những cơn say liên miên, những khung cảnh cướp giật, rạch mặt ăn vạ, những lời chửi bới và nỗi cô đơn đến khủng khiếp. Thị Nở đã không thể cứu vớt hắn, mọi nẻo đường đến với lương thiện đều đóng kín. Thà rằng hắn cứ là một thằng cùng đinh liều lĩnh, tay sai của Bá Kiến, không biết gì về cuộc sống bên ngoài. Thà rằng hắn cứ yên phận mà ngông nghênh giữa làng còn hơn biết đến một tình yêu, một lôi sống mới mà không được tận hưởng. Cho nên Chí Phèo "càng uống lại càng tỉnh ra". Cái tỉnh của hắn là cái tỉnh của một người muôn sống mà bất lực với cuộc sống đó. Nỗi bất hạnh của hắn giờ đây còn nặng hơn gấp trăm lần bất hạnh trước đó hắn từng trải qua. Ai sẽ là người cứu vớt hắn khỏi vực sâu của tội lỗi, làm sao hắn có thể xóa được những vết đâm chém trên mặt hắn? Hắn nhận ra một điều hiển nhiên là mọi người không chấp nhận sự tồn tại của hắn nên sẽ không dung nạp lòng tốt của hắn. Cả làng Vũ Đại chỉ biết đến hắn trong vai trò một con quỷ dừ, liệu có ai tin khi hắn muôn trở thành một người bình thường? Xã hội kia, làng Vu Đại này có dễ dàng dung nạp cho hắn? Trước đây muôn sống được thì phải liều, bây giờ hiền lành chắc chắn không phải là một lôi sống có thể giúp hắn tồn tại. Đó là một quy luật tất yếu. Đây mới chính là hiện thân đầy đủ, cao cả nhất, sâu sắc nhất con người đích thực vẫn tiềm ẩn bấy lâu trong dân trí. Con người ấy biết suy nghĩ, lựa chọn, đặt ra những tình huống có thể xảy đến với mình khi mọi lối thoát đều đã hết.

Trở lại với những câu nói ở cuôì truyện của Chí Phèo, ta thấy đó là biểu hiện cao độ của khát vọng được làm người. "Tao muôn làm người lương thiện" là sự trỗi dậy mạnh mẽ, đánh dấu bước nhận thức mới trong con người Chí. Nếu trước đó hắn chỉ lơ mơ hiểu về cái tốt đẹp khi tỉnh rượu, rồi hiểu thế nào là nghĩa lí cuộc sống khi ăn bát cháo hành của thị Nở thì đây là lúc hắn lên tiếng đòi cái quyền được sống cho mình. Chính vì càng ý thức được khát vọng sống cho nên Chí Phèo cũng hiểu ra: "Tao không thể làm người lương thiện nữa rồi". Xã hội ấy không có chỗ đứng cho một kẻ muốn hoàn lương như hắn. Hắn đã ở trong vòng vây của lỗi lầm quá lớn, hắn đã bị xô đẩy vào chốn tôi tăm mà ở đó ngay cả sự lương thiện cũng không thể cứu vớt được hắn. Những câu nói tất yếu của Chí Phèo không chỉ là lời khuyến cáo dành cho cụ Bá Kiến, ăn tiên chỉ làng Vũ Đại, mà là lời tô" cáo chung dành cho cái xã hội tàn ác, chà đạp quyền sống của con người. Tiếng nói lương thiện không chỉ là khát vọng riêng của cá nhân Chí Phèo, nó còn là tiếng nói cao cả nhất của những người nông dân từng bị áp bức, tước đoạt mọi quyền làm chủ bản thân. Phải chăng đó cũng là tiếng nói vừa phát hiện lại vừa nâng đỡ chất người trong Chí, trong những kẻ tha hóa muôn hoàn lương. Trong lời nói của Chí Phèo ánh lên chất nhân bản của tác phẩm. Dường như kết cục của cuộc đời Chí chính là một lối thoát mà Nam Cao đã dành cho nhân vật này, để ông nâng vai trò con người trong Chí lên một mức độ cao hơn, con người đích thực. Mọi dụng ý nghệ thuật hầu như đều dồn lại ở cái kết cục đó. Chí Phèo chết bởi vì hắn muốn có được sự lương thiện nhưng xã hội, mọi người không cho hắn cơ hội đó. Chí Phèo chết trong sự nhận thức rất rõ về mình, về sự ghê lạnh của mọi người đối với hắn, về mơ ước tới một cuộc sống đích thực. Cái chết là sự hối cải cuối cùng mà Chí còn có thể làm được trong cuộc đời đầy rẫy tội lỗi của hắn. Chi tiết này vừa bộc lộ được giá trị hiện thực lại vừa đậm tính nhân bản.

Người ta nói trong mỗi truyện ngắn nhà văn đều chọn cho mình một mục tiêu để vươn tới những yếu tố cần thiết để phục cho mục tiêu đó. Sẽ có những đoạn, những chỗ mà ý định, tâm huyết của người cần bút hiện lên rất rõ rệt, có khi thành định nghĩa, quan niệm. Không nêu lên một khái niệm cụ thể về chất nhân bản trong con người, nhưng cái kết của Chí Phèo là một lời khẳng định về khát vọng sống của con người. Mọi chuẩn bị trước đó dường như chỉ để đợi cái giây phút Chí Phèo bật lên tiếng nói căm phẫn, đòi hỏi sự lương thiện. Chủ đề của truyện đến đây được nâng lên thành ý nghĩa nhân đạo cao cả. Chí Phèo đã nói hộ Nam Cao những điều mà nhà văn muốn nói, muốn đem đến cho con người.

                                                                                                ĐỀ 3

           Phân tích nhân vật Chí Phèo qua truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao

 

 “Chí Phèo” (1941) là một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Nam Cao viết về đề tài nông dân trước Cách mạng. Nó là một truyện ngắn có thể “làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời”, đã đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu trong lớp các nhà văn hiện thực phê phán 1930-1945. Tác giả đã xây dựng thành công một nhân vật điển hình, nhân vật Chí Phèo, phản ánh một tấn bi kịch có ý nghĩa sâu sắc vào loại tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam.

   Bi kịch Chí Phèo là bi kịch của một nông dân cùng khổ bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi, bị cự tuyệt quyền làm người, hay nói một cách khác là số phận bi thảm của một con người muốn được làm người mà không thể được Nam Cao đã viết về tấn bi kịch của Chí Phèo bằng một bút pháp vô cùng sắc sảo: biến hóa lúc kể, lúc tả, triết lí thì thấm thía, trữ tình thì đau đớn xót xa đầy ám ảnh nghệ thuật, làm xúc động lòng người hơn nửa thế kỉ nay.

   Nam Cao không nói về sưu thuế dã man, không nói về tô tức mà ông có những khám phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp, có một cái nhìn mới mẻ độc đáo, sâu sắc trong việc thể hiện nỗi đau khổ trăm chiều của người nông dân nghèo bị áp bức bóc lột tàn tệ trong xã hội thực dân phong kiến.

   Chí Phèo bất hạnh ngay từ khi sơ sinh “trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cạnh lò gạch bỏ không”. Anh thả ống lương “rước lấy và đem cho một người đàn bà góa mù”, sau đó hắn bị đem bán cho bác phó cối. Chí lớn lên trong cảnh bơ vơ, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không một mái lều che thân, không một tấc đất cằm dùi “hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”, đến năm 20 tuổi thì Chí Phèo làm canh điền cho lí Kiến.

Có thể nói cái trang đời thơ ấu và thanh niên của Chí Phèo là 20 năm trời đắng cay không chốn nương thân. Bi kịch của anh canh điền này bắt đầu từ chuyện bà Ba ông lí còn trẻ lắm mà “lại cứ hay ốm lửng, bắt hắn bóp chân, hay xoa bụng, đấm lưng gì đấy”. Chí không phải là gỗ đá, nhưng hắn thấy nhục hơn là thích, huống hồ lại sợ”. Chỉ một chuyện ghen tuông không đâu. Bá Kiến đã ngấm ngầm cấu kết với quan trên bắt Chí giải lên huyện, bỏ tù hắn bảy tám năm trời. Cái nhà tù thực dân đã biến Chí Phèo từ một nông dân lương thiện, hiền lành trở thành một tên lưu manh, một con quỷ dữ trong làng Vũ Đại.

   Đi tù “biệt tăm”, bỗng đâu hắn lại "lù lù lần về”. Một Chí Phèo đã hoàn toàn khác hẳn: “Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mát gườm gườm trông gớm chết”. Chí mặc cái quần nái đen, cái áo tây vàng, cái ngực và cái tay chạm trổ rồng, phượng nói một ông tướng cầm chùy... Đó là hình ảnh Chí Phèo lúc ngồi uống rượu với thịt chó ở chợ từ trưa tới xế chiều, cho đến lúc say khướt. Hắn đã hành động một cách dữ dội: xông thẳng đến nhà Bá Kiến chửi “mồ mả tổ tiên đến lộn lên mất”, đập cái vỏ chai vào cái cổng, rạch mặt, kêu trời ăn vạ! Chí Phèo đã hành động như một tên đầu bò vô cùng ngang ngược. Tuy nhiên hắn đã nhận diện ra Bá Kiến là kẻ thù của mình. Nhưng chỉ một bữa rượu, một vài câu mơn trớn, một đồng bạc đãi thêm của cụ Bá đã làm cho “Chí Phèo vô cùng hả hê”. Hắn mơ hồ về chuyện hắn “còn có họ” với lí Cường nữa đấy! Mấy hôm sau, Chí lại dở trò lưu manh đốt quán mụ bán rượu, lại vác dao đến nhà cụ Bá xin đi ở tù "bẩm quả đi ở tù sướng quá!”. Chỉ sáu ngày sau khi Chí về lại làng, hắn đến nhà Bá Kiến lần thứ hai sinh sự: “Cái mặt thì ngầu lên, hai chân thì lảo đảo, cái môi bầm lại mà run bần bật". Hắn nghiến răng hăm dọa: con phải đâm chết vài ba thằng rồi cụ bắt con giải huyện”. Cụ Bá cười khanh khách, vỗ vai Chí Phèo một cái, hắn như bị thôi miên, rồi vác dao đến nhà đội Tảo đòi nợ cho cụ Bá. Chẳng xảy ra chuyện đổ máu. Chí Phèo vênh vênh cầm năm chục đồng bạc ra về, tự đắc: “Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”. Từ đó Chí Phèo trở thành “đầy tớ chân tay mới” của Bá Kiến. Thế là Chí có nhà, có năm sào vườn ở bãi sông, năm đó hắn hăm bảy, hăm tám tuổi. Cùng kể từ đáy, Chí mất phương hướng hẳn, hắn trở thành tay sai đắc lực của Bá Kiến. Hắn đã bán mình cho quỷ dữ, và chẳng bao lâu hắn cũng trở thành một con quỷ dữ ghê tởm. Hắn chìm ngập vào vũng bún tăm tối, tội lỗi. Hắn mất dần ý niệm về thời gian, không biết tuổi tác cuộc đời mình “đã dài bao nhiêu năm rồi”. Năm nối năm, tuổi nối tuổi, “ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay ngoài bốn mươi?’’. Bộ mặt Chí Phèo giờ đây như “cái mặt của con vật lạ” với màu '‘vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio” với bao nhiêu là sẹo “vằn dọc vằn ngang”, vết mảnh chai ăn vạ kêu làng! Cuộc đời hắn chồng chất tội lỗi “bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách đâm chém, người ta giao cho hắn làm”. Hắn đâm thuê chém mướn để kiếm tiền mà uống rượu. Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông. “Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận”. Chí Phèo bị mua chuộc, bị xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi. Muốn giết người, muốn đâm chém và cướp giật cần gan và liều mạng, hắn đã tìm đến rượu. Mất dần nhân tính, hắn trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại: “Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện”.

Chí Phèo đã bị cả xã hội ruồng bỏ. Cái thẻ có biên tên tuổi hắn cũng không có trong sổ làng, người ta vẫn khai hắn vào hạng dân lưu tán, lâu năm không về làng. Tất cả dân làng đều sợ hắn, “tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua”. Hắn chửi, ai cũng nghĩ “mặc thây cha nó”, ai cũng chẳng thèm nghe, khác nào “những người say rượu hát”. Hình ảnh Chí Phèo “vừa đi vừa chửi” gây cho người đọc nỗi ám ảnh về bi kịch của một người điên khùng, mất trí đang trải qua nỗi cô đơn tuyệt vọng. Hắn chửi tuốt, chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi tất cả những ai không chửi nhau với hắn, “tức mình hắn chửi đứa nào đẻ ra chính hắn!”. Chí Phèo cứ chửi, “chửi rồi lại nghe”. Hắn bị bao vây bởi một “sự im lặng đáng sự”. Năm thì mười họa mới “ba con chó dữ với một thằng say rượu!”. Hắn đã hoàn toàn bị xã hội dứt khoát cự tuyệt không được nhìn nhận là người.

   Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh một hiện thực khá phổ biến có tính quy luật ở nông thôn nước ta dưới thời Pháp thuộc: nhiều người lao động lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường cùng, đã phản kháng lại, lưu manh liều mạng để tồn tại. Năm Thọ “đầu bò đầu bướu” vừa đi mất tăm lại có Binh Chức lần về, Binh Chức chết lại nở ra Chí Phèo. Biết đâu thị Nở lại không đẻ nơi lò gạch cũ một Chí Phèo con trong cái váy đụp nữa? Bọn hào lí, một mặt bóp nặn dân lành đến tận xương tủy, mặt khác “lại phải ngậm miệng cung cấp cho những thằng cùng hơn là dân cùng nên liều lĩnh, lúc nào cũng có thể cầm dao đâm người hay đâm mình”. Chừng nào còn bọn cường hào sâu mọt, độc ác, áp bức bóc lột tàn tệ dân lành, thì chừng đó còn người lao động lương thiện bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi, phải kiếm ăn bằng đâm thuê chém mướn, bằng cướp giật. Cái xã hội ấy đã cướp đi của họ cả bộ mặt lẫn linh hồn người, hủy diệt nhân tính và đã cự tuyệt quyền làm người của họ. Nhân vật Chí Phèo đã cho thấy cái quy luật tàn bạo ghê sợ đó trong xã hội cũ.

Đoạn văn Nam Cao kể về chuyện Chí Phèo uống rượu với Tự Lãng là một tình tiết làm rõ thêm bi kịch cô đơn, điên khùng, đau đớn đến cùng cực của một kẻ bị xã hội cự tuyệt quyền làm người. Tự Lãng có “bộ râu lờ phờ”, làm nghề thầy cúng và hoạn lợn. Vợ chết đã bảy, tám năm con gái chửa hoang trốn đi. Lão cũng cô đơn như Chí Phèo. Như “đôi tri kỉ cuồng” uống rượu dưới trăng. Chúng uống sạch ba chai, “ngả vào nhau mà cười”. Say rượu, lão Tự 
“bò như cua”. Chí Phèo vật lão ra mà vuốt râu lão. Chí phanh ngực, vừa đi vừa gãi, lần đường tìm về mảnh vườn và cái lều của hắn. Chính trong đêm trăng ấy, Chí đang “bứt rứt quá, ngứa ngáy quá” thì hắn bắt gặp thị Nở đang nằm ngủ “cái mồm mụ há hốc lên trăng mà ngủ”. Chí Phèo đã xông tới người đàn bà “xấu ma chê quỷ hờn” đó một cách... Chí Phèo! Cuộc làm tình của Chí Phèo lúc đầu chỉ mang tính bản năng sinh vật ở một gã đàn ông say rượu với một người đàn bà ngoài ba mươi tuổi “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích" mà thôi! Nhưng thật kì lạ, sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và sự yêu thương mộc mạc, chân thành của thị Nở đã đánh thức dậy bản chất lương thiện của người lao động trong kẻ từng rạch mặt ăn vạ và đâm thuê chém mướn này. Chí Phèo bị cảm, thị Nở đã “quàng tay vào nách hắn” và “hắn đu vào cổ thị, hai người lảo đảo đi về lều”. Bát cháo hành của thị Nở làm cho Chí Phèo gần như thay đổi hẳn. Lần đầu tiên hắn được nếm mùi cháo: “trời ơi cháo mới thơm làm sao!". Cũng lần đầu tiên hắn được chăm sóc bởi một bàn tay “đàn bà”. Mấy chục năm qua, hắn muốn ăn thì phải dọa, phải cướp, thế mà “lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”. Và cũng là người đàn bà độc nhất trong làng Vũ Đại nhận biết bản chất lương thiện của Chí Phèo. Thị nhìn Chí Phèo ăn cháo hành rồi thốt lên: “Ôi sao mà hắn hiền”… Chỉ có thị Nở mới cảm nhận được: “hắn cười nghe thật hiền...” mà thôi!
 

Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm “gặp gỡ” thị Nở cho thấy Nam Cao là bậc thầy về nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật. Sự thức tỉnh của linh hồn trong Chí Phèo được tác giả kể lại thật xúc động, nhiều xót thương. Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy “lòng bâng khuâng mơ hồ buồn”. Tiếng chim hót vui vẻ, tiếng người đi chợ cười nói, tiếng anh thuyền chèo gõ mái chèo đuổi cả... Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Lòng hắn buồn “chao ôi là buồn!”, Lương tâm hắn bị lay động. Tiếng vọng của đời thường đã đánh thức linh hồn Chí. Hắn nhớ lại những ngày xưa, một thời từng mơ ước, cái ước mơ bình dị của những người dân cày nghèo khổ “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”, nuôi lợn làm vốn liêng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng. Càng hồi tưởng càng buồn càng lo âu. Ngoài bốn mươi tuổi đầu, Chí cảm thấy “đã tới cái dốc bên kia cuộc đời”, và hắn lo, hắn sợ “đói rét và ốm đau, là cô độc, cái này còn đúng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Chí Phèo vừa húp cháo hành vừa trìu mến nhìn thị Nở, rồi hắn vẩn vơ nghĩ gần nghĩ xa. Lâu nay hắn chỉ đâm chém và cướp giật. "Nếu không còn sức mà cướp giật, dọa nạt nữa thì đã sao?". Thằng lưu manh “chỉ mạnh về liều”. Sẽ có một lúc nào đó “không thể nào liều được nữa” thì bấy giờ mới nguy!

Nam Cao đã cho chúng ta thấy, Chí Phèo vốn là một người lao động cùng khổ lương thiện “cái bản tính của hẳn ngày thường bị lấp đi”. Cùng với “tình yêu” sự săn sóc của thị Nở, “trận ốm thay đổi hắn về sinh lí, cũng thay đổi về tâm lí nữa” của Chí Phèo. Đó là một cái nhìn sâu sắc với tâm lòng xót thương đầy tình người của nhà văn này đối với những con người nghèo khổ, lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi.

   Linh hồn thức tỉnh, bản tính bị lấp đi dần dần lộ ra. Chí Phèo bỗng thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao!”. Hắn khao khát được mọi người “sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện". Đàn bà cũng như thị Nở “không có men như rượu”, nhưng Chí "say thị lắm!”. “Với một vẻ mặt rất phong tình”, hắn bảo thị Nở: “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”. Câu nói ấy là một câu nói “tình tứ”, đã biểu lộ chân tình cái khao khát muốn được làm người, “thèm lương thiện” và “muốn làm hòa với mọi người” của Chí Phèo. Có nghe hắn chửi, có nhìn thấy hắn rạch mặt, ăn vạ, có mục kích hắn say rượu vác dao đi đâm người... thì ta mới thấy xúc động vô cùng trước những khao khát, bình dị ấy của Chí Phèo, của con người đau khổ bất hạnh!... Câu trả lời của thị Nở sẽ quyết định số phận của hắn.

Như một kẻ chết đuối giữa vực sâu, Chí Phèo “bám” được thị Nở cứ tưởng là vớ được cọc, đâu ngờ chỉ là rễ bèo. Chí Phèo “say thị lắm”, nhưng đến hôm thứ sáu thì Thị nghĩ bụng: “hãy dừng yêu để hỏi cô Thị đã”. Như ta biết, con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa được hé mở ra đã bị đóng sầm lại! Bà cô đã đay nghiến thị Nở, bà thấy cháu bà “sao mà đĩ thế?”. Bà thấy nhục nhã, bà gào lên “như con ma dại". Bà quyết không cho phép cháu bà “đi lấy một thằng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ”. Nhưng trách gì bà ta! Cách nhìn của bà ta cũng chính là cách nhìn của mọi người làng Vũ Đại lâu nay đối với Chí Phèo. Chỉ trừ Bá Kiến và thị Nở ra, chứ còn ai nữa dám đi qua mặt Chí, dám đối diện với Chí! Tất cả quen coi hắn là “quỷ dữ” mất rồi. Hôm nay, linh hồn hắn trở về, nhưng không ai nhận ra; hắn “muốn làm hòa với mọi người” nhưng ai nhận! Chí Phèo thực sự rơi vào một bi kịch tinh thần, đau đớn, quằn quại. Hắn “ngẩn người'’ khi nhìn và nghe Thị nói. Hắn “sửng sốt” đứng lên gọi Thị. Hắn đuổi theo “nắm lấy tay” Thị, nhưng bị thị gạt ra, dúi thêm cho một cái ngã “lăn khoèo xuống sân”.

Chí Phèo vật vã trong cơn đau đớn tuyệt vọng. Hắn vớ một hòn gạch toan đập đầu ăn vạ! Hắn phải “đâm chết con đĩ Nở kia”, “đâm chết cái con khọm già nhà nó”. Hắn lại uống, lại uống... nhưng “càng uống càng tỉnh ra”, tỉnh ra để thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận mình: quyền làm người được sống lương thiện đã bị xã hội và đồng loại dứt khoát cự tuyệt. Rồi “hắn ôm mặt khóc rưng rức” cho đến khi đã say mềm người rồi hắn đi. Hắn ra đi với một con dao ở  thắt lưng với câu nói lảm nhảm: “Tao phải đâm chết nó”. Chính vào buổi trưa “trời nắng, đường vắng” ấy, Chí Phèo lần thứ ba đến gặp Bá Kiến “không đòi tiền“ như mọi khi mà đòi lương thiện, đòi quyền “làm người lương thiện!”. Câu nói của Chí Phèo: "... Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được hết những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!...” đó là những lời đanh thép vạch mặt, kết án tên cường hào xảo quyệt Bá Kiến, đồng thời là tiếng kêu thương tuyệt vọng của một kiếp người đau khổ! Chí Phèo “văng dao tới” giết Bá Kiến rồi tự sát. Chí đã giết chết con quỷ dữ làng Vũ Đại đã làm hại đời anh. Chí không muốn sống nữa, vì giờ đây, ý thức về nhân phẩm đã trở về. Chí không thể sống kiểu lưu manh, không thể làm quỷ dữ, sống như thú vật được nữa. Chí Phèo đã chết bi thảm, quằn quại trên vũng máu của mình, chết trong tiếng kêu uất hận đau thương, đầy xót xa, ám ảnh. Anh ta đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời, khi cánh cửa cuộc đời đóng chặt trước mặt anh.

   Chí Phèo là một hiện tượng lưu manh hóa ở nông thôn mang tính chất điển hình, có ý nghĩa kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo đẩy người dân cày nghèo vào kiếp sống tối tăm thú vật, cướp đi của họ cả bộ mặt, cả linh hồn người. Câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo: “Ai cho tao lương thiện?” là câu hỏi chứa chất phần uất, đau đớn, mãi mãi làm day dứt lòng người. Làm thế nào để con người được sống cuộc sống lương thiện, bình dị trong cái xã hội tàn bạo ngột ngạt, vùi dập nhân tính ấy? Qua hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đã đặt ra câu hỏi lớn ấy. Với cảm quan hiện thực sắc sảo đặc biệt, Nam Cao đã vạch ra mối mâu thuẫn giai cấp gay gắt ở nông thôn và tình trạng tha hóa phổ biến trong cái xã hội vô nhân đạo đó. Truyện “Chí Phèo” vừa chứa chan tình cảm nhân đạo, vừa mang ý nghĩa triết lí sâu sắc được thể hiện dưới hình thức nghệ thuật vô cùng độc đào, xứng đáng được coi là một kiệt tác.

 

 

 

 

 

Bài viết gợi ý: