ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN

1. - Văn bản viết vào đầu năm 2001, khi đất nước cùng toàn thế giới bước vào năm đầu tiên của thế kỉ mới. Đây là dịp người ta nhìn lại, kiểm điểm lại mình về chặng đường đã qua và chuẩn bị hành trang đi tiếp chặng đường mới. Thời điểm chuyển giao thời gian ở đây lại đặc biệt có ý nghĩa, đó là sự chuyển giao hai thế kỉ, hai thiên niên kỉ. Riêng đối với dân tộc ta, thời điểm này lại càng có ý nghĩa quan trong: công cuộc đổi mới bắt đầu từ cuối thế kỷ trước đã đạt được những thành quả vững chắc và chúng ta bước sang thế kỉ mới với mục tiêu phấn đấu rất cao, giải quyết nhim vụ cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Vì vậy, bài viết của tác giả có ý nghĩa rất kịp thời.

- Vấn đề mà tác giả bàn luận ở đây đã được nêu rõ trong nhan đề: Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới. Luận điểm cơ bản của bài cũng được nêu lên ngay trong câu đầu: “Lớp trẻ Việt Nam cần nhận ra những cái mạnh, cái yếu của con người Việt Nam để rèn những thói quen tốt khi bước vào nền kinh tế mi”. Vấn đề ấy không chỉ có ý nghĩa thời sự trong thời điểm chuyển giao thế kỉ mà còn có ý nghĩa lâu dài đối với cả quá trình đi lên của đất nước. Bởi vì, nhận rõ cái mạnh, cái yếu, phát huy cái mạnh và khắc phục cái yếu là điều kiện hết sức cần thiết để phát triển, nếu không muốn tụt lùi, đối với mỗi người và mọi dân tộc. Điều đó lại càng cần thiết với dân tộc khi thực sự đi vào công cuộc xây dựng, phát triển trong xu thế hội nhập, trong nn kinh tế có xu hướng toàn cầu hóa hiện nay.

2. & 3.

a) Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới thì quan trọng nhất là sự chuẩn bị bn thân con người.

Đây là luận cứ quan trọng mở đầu cho cả hệ thống luận cứ của bài. Nó có ý nghĩa đặt vấn đề, mở ra hướng lập luận của toàn bài.

Các lí lẽ nêu lên để xác minh cho luận cứ này là:

- Từ cổ chí kim, bao giờ con người cũng là động lực phát triển của lịch sử.

- Trong thời kì nền kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ thì vai trò của con người lại càng nổi trội.

b) Bối cảnh ca thế giới hiện nay và những mục tiêu, nhiệm vnặng nề của đất nước.

Luận cứ này được triển khai trong hai ý:

- Một thế giới mà khoa học công nghệ phát triển như huyền thoại, sự giao thoa, hội nhập ngày càng sâu rộng gia các nền kinh tế.

- Nước ta phải đồng thời giải quyết ba nhiệm vụ: thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu của nền kinh tế nông nghiệp; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đồng thời lại phải tiếp cận ngay với nền kinh tế tri thức.

c) Những cái mnh, cái yếu của con người Việt Nam cần được nhận rõ khi bước vào nền kinh tế mới trong thế kỉ mới.

Đây là luận cứ trung tâm, quan trọng nhất của cả bài nên được tác giả triển khai cụ thể và phân tích khá thấu đáo.

d) Kết luận

Bước vào thế kỉ mới, mỗi người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ cần phát huy những điểm mạnh, khắc phục những cái yếu, rèn cho mình những thói quen tốt ngay từ những việc nhỏ để đáp ứng nhiệm vụ đưa đất nước đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Nhìn lại hệ thống luận cứ ở trên, có thể thấy tính chặt chẽ và tính định hướng rất rõ của hệ thống luận cứ. Bắt đầu từ việc nêu thời điểm chuyển giao thế kỉ và yêu cầu chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới. Tiếp đó, khẳng định chuẩn bị hành trang quan trọng nhất là chính bản thân con người. Sự chuẩn bị này phải đặt vào bối cảnh thế giới và đối chiếu với những mục tiêu, nhiệm vụ trước mắt của đất nước. Từ đó, nhận rõ những cái mạnh, cái yếu của con người Việt Nam trước yêu cầu của thời kì mới. Hệ thống luận cứ này kết thúc bằng việc nêu yêu cầu với thế hệ trẻ: “Bước vào thế kỉ mới, mun “sánh vai cùng các cường quốc năm châu” thì chúng ta sẽ phải lấy đầy hành trang bằng những điểm mạnh, vứt bỏ những điểm yếu. Muốn vậy thì khâu đầu tiên, có ý nghĩa quyết định là hãy làm cho lp tr- những người chủ thc sự của đất nước trong thế kỉ tới – nhận ra điều đó, quen dần với những thói quen tốt đẹp ngay từ những việc nhỏ nhất”.

4. Những điểm mạnh, điểm yếu trong tính cách, thói quen của con người Việt Nam. Điều đáng chú ý ở phần này là tác giả không chia thành hai ý rõ rệt: cái mạnh và cái yếu, mà cách lập luận là nếu từng điểm mạnh và đi liền với nó lại là cái yếu. Trong cái mạnh lại có thể chứa đựng cái yếu, nếu xem xét từ một yêu cầu nào đó. Điều đáng chú ý nữa trong cách lập luận của tác giả là cái mạnh, cái yêu luôn được đối chiếu với yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước hiện nay, chứ không phải chỉ nhìn trong lịch sử. Cụ thể như sau:

- Thông minh, nhạy bén với cái mới nhưng thiếu kiến thức cơ bản, kém khả năng thực hành.

- Cần cù, sáng tạo nhưng thiếu đức tính tỉ mỉ, không coi trọng nghiêm ngặt quy trình công nghệ, chưa quen với tốc độ khẩn trương.

- Có tinh thần đoàn kết, đùm bọc, nhất là trong công cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, nhưng lại thường đố kị nhau trong làm ăn và trong cuộc sng thường ngày.

- Bản tính thích ứng nhanh, nhưng lại có nhiều hạn chế trong thói quen và nếp nghĩ, kì thị kinh doanh, quen với bao cấp, thói vùng ngoại hoặc bài ngoại quá mức, thói “khôn vặt”, ít giữ chữ “tín”.

5. Nhận xét về thái độ của tác giả khi nêu lên những điểm mạnh, điểm yếu của con người Việt Nam.

Lâu nay, khi nói đến tính cách dân tộc và phẩm chất con người Việt Nam nhiều người thường chỉ thiên về khẳng định những cái hay, cái tốt, cái mạnh. Điều này không phải không có cơ sở và cũng là cần thiết, nhất là khi chúng ta cần phát huy sức mạnh dân tộc trong cuộc chiến đấu chống xâm lược, giành lại độc lập và thống nhất Tổ quốc. Nhưng mặt khác, nếu chỉ nói một phía những ưu điểm, chỗ mạnh mà bỏ qua những hạn chế, nhược điểm sẽ dẫn đến tình trạng hiểu không đúng về dân tộc mình. Chúng ta có thể ngộ nhận, tự đề cao quá mức, dẫn đến tâm lí tự thỏa mãn, không học người khác. Tâm lí ấy có hại và cản trở sự vươn lên phát triển của đất nước, nhất là trong bối cảnh thế giới hiện nay. Lòng yêu nước, tinh thần dân tộc đòi hỏi mọi người phải nhìn rõ cả cái mạnh và cái yếu của dân tộc, có sự thôi thúc vươn lên, vứt bỏ những cái yếu kém, vượt qua những hạn chế để sánh vai được với những đất nước phát triển, văn minh, tiến bộ. Thái độ của tác giả là tôn trọng sự thực, nhìn nhận vấn đề một cách khách quan, toàn diện, không thiên lệch về một phía, khẳng định và trân trọng những phẩm chất tốt đẹp, đồng thời cũng thẳng thắn chỉ ra những mặt yếu kém, không rơi vào sự đề cao quá mức hay tự ti, kì thị dân tộc.

6. Nhận xét về một đặc điểm ngôn ngữ của văn bản

- Bài viết đề cập một vấn đề quan trọng trong đời sống dân tộc trước một thời điểm lịch sử, nhưng tác giả không dùng cách nói trang trọng, cũng không sử dụng nhiều tri thức uyên bác, sách vở.

- Ngôn ngữ của bài là ngôn ngữ báo chí, khác với đời sống, dùng cách nói giản dị, trực tiếp, dễ hiểu. Một trong những biện pháp để tạo được sắc thái ngôn ngữ ấy là việc sử dụng khá nhiều thành ngữ, tục ngữ. Cách nói theo thành ngữ, tục ngữ vừa sinh động, cụ thể, lại vừa ý vị, sâu sắc và ngắn gọn.

- Ví dụ: “nước đến chân mới nhảy”, “liệu cơm gắp mắm”, “trâu buộc ghét trâu ăn”, “bóc ngắn cắn dài”...

Bài viết gợi ý: