CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ
– Nguyễn Tuân –
PHẦN 1 : BÀI HỌC
- Xuất xứ
Chữ người tử tù ban đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng in năm 1938 trên tạp chí Tao đàn. Đây là một truyện ngắn đặc sắc trong “Vang bóng một thời” – tập truyện được xuất bản năm 1940, gồm 11 truyện ngắn viết về “một thời” đã qua nay chỉ còn “vang bóng”. Mỗi truyện trong “Vang bóng một thời” đi vào một cái tài, một thú chơi tao nhã, phong lưu của những nhà nho tài hoa lỡ vận: chơi chữ, thưởng thức chén trà buổi sớm, thả thơ đánh thơ… Nhân vật trong “Vang bóng một thời” chủ yếu là những nho sĩ cuối mùa, tuy buông xuôi bất lực nhưng quyết giữ “thiên lương” và “sự trong sạch của tâm hồn” bằng cách thực hiện “cái đạo sống của người tài tử”. Qua tập truyện này, nhà văn không chỉ thể hiện sự nuối tiếc vẻ đẹp của một thời quá vãng mà còn bộc lộ niềm trân trọng và tự hào về truyền thống văn hoá lâu đời của dân tộc.
- Cảm hứng chủ đạo
Thái độ trân trọng, ngợi ca, nuối tiếc của nhà văn trước một vẻ đẹp văn hóa lâu đời đang có nguy cơ mai một đồng thời là sự thể hiện quan niệm thẩm mĩ mà suốt đời nhà văn theo đuổi : cái Đẹp là sự hòa hợp giữa cái tâm và cái tài, cái tài nhờ có cái tâm để mà “cháy lên”, còn cái tâm nhờ có cái tài để mà “tỏa sáng” (R.Gam-da-tốp). Tác phẩm cũng là bài học về lẽ sống đẹp, về “đạo sống” của những con người chân chính trên đời : dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải giữ gìn “thiên lương” cho lành vững; sống trên đời không được phụ những tấm lòng trong thiên hạ; phải biết tôn trọng tài năng và phẩm giá của con người.
- Nhan đề
“Chữ” ở đây là chữ Hán – thứ chữ khối vuông, được viết bằng bút lông, vừa có tính chất tạo hình vừa ít nhiều mang dấu ấn cá tính, nhân cách người viết. Từ xưa, ở nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam người ta đã biết thưởng thức chữ đẹp và có thú chơi chữ. Người viết chữ đẹp được coi là nghệ sĩ và viết chữ được xem là một hành vi sáng tạo nghệ thuật, một hoạt động sản sinh cái đẹp. Bộ môn nghệ thuật ấy được gọi là thư pháp.
“Người tử tù” trong nhan đề chính là Huấn Cao, người nổi tiếng về viết chữ đẹp, thiên lương trong sáng và khí phách hơn người. Huấn Cao không chỉ là người nghệ sĩ có khả năng sáng tạo cái Đẹp mà còn là người kết tinh, lưu giữ một trong những vẻ đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc.
Căn cứ vào nội dung truyện, có thể hiểu Chữ người tử tù là cái nhan đề hàm chứa quan niệm và thái độ trân trọng, ngợi ca của nhà văn đối với cái Đẹp thuộc về văn hóa truyền thống và cái Đẹp thuộc về nhân cách con người. Đó chính là sự tôn vinh và luyến tiếc của Nguyễn Tuân trước một vẻ đẹp văn hóa lâu đời đang có nguy cơ mai một đồng thời là sự thể hiện một quan niệm thẩm mĩ mà suốt đời nhà văn theo đuổi : cái Đẹp là sự hòa hợp giữa cái tâm và cái tài, cái tài nhờ có cái tâm để mà “cháy lên” còn cái tâm nhờ có cái tài để mà “tỏa sáng” (R.Gam-da-tốp).
Bên cạnh đó, Chữ người tử tù thực ra không chỉ là chuyện chữ nghĩa (xin chữ, cho chữ) mà sâu xa hơn đó là bài học về lẽ sống, “đạo sống” của những con người chân chính trên đời : dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải giữ gìn “thiên lương” cho lành vững và cũng phải sống đẹp, mà sống đẹp thì không thể không gắn liền với cách ứng xử nhân văn – “biệt nhỡn liên tài” tức là phải biết tôn trọng tài năng và phẩm giá của con người.
- Tình huống truyện
Trong loại tự sự, đặc biệt là thể loại truyện ngắn, tình huống truyện có vai trò rất quan trọng. Nó không chỉ góp phần đáng kể vào việc thể hiện tính cách nhân vật và chủ đề tác phẩm mà còn tạo ra kịch tính cho câu chuyện, gia tăng tính hấp dẫn của cốt truyện.
Tình huống truyện được hiểu là một hoàn cảnh đặc biệt, một cảnh huống bất bình thường mà ở đó con người bộc lộ một cách một cách rõ nét những suy nghĩ, hành động, năng lực và cá tính của mình. Tình huống gắn bó chặt chẽ với cốt truyện, thường hiện lện rõ rệt ở các bước ngoặt trên dòng cốt truyện, chi phối chiều hướng con đường đời của nhân vật.
Tình huống của truyện Chữ người tử tù là cuộc gặp gỡ khác thường của hai con người khác thường : viên quản ngục – kẻ đại diện cho bạo lực tăm tối nhưng lại rất khát khao ánh sáng của chữ nghĩa và Huấn Cao – người tử tù có tài viết chữ đẹp nổi tiếng. Lẽ ra đây phải là cuộc hội ngộ tương đắc của những kẻ biệt nhỡn liên tài, của hai tâm hồn nghệ sĩ yêu cái đẹp. Nhưng thật oái oăm, họ lại phải gặp nhau giữa chốn ngục tù và trong một tình thế éo le : cuộc chạm trán giữa một tên “đại nghịch”, cầm đầu cuộc nổi loạn đang đợi ngày ra pháp trường với kẻ đại diện cho trật tự xã hội đương thời.
Tình huống truyện này trước hết đã góp phần làm nổi rõ tính cách của Huấn Cao – nhân vật chính của truyện, đó là một người tài hoa, hiên ngang, bất khuất trước cái ác, cái xấu nhưng lại mềm lòng trước cái thiện, cái đẹp; đồng thời soi sáng vẻ đẹp tâm hồn khuất lấp của viên quản ngục – một “thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.
Tình huống truyện này cũng đã ít nhiều làm bật sáng chủ đề tác phẩm : ngợi ca cái tài, cái đẹp, cái “thiên lương” và đề cao cách hành xử giàu tinh thần nhân văn và cao thượng – sống trên đời không được phụ những tấm lòng tri kỉ; sống trên đời phải biết “biệt nhỡn liên tài”.
Tình huống truyện nêu trên còn cho thấy phần nào kịch tính của câu chuyện. Mâu thuẫn “kịch” ở đây là sự đối lập giữa niềm khát khao chữ nghĩa của quản ngục với thái độ khinh bỉ của Huấn Cao đối với ngục quan. Diễn biến của thiên truyện cũng tựa như cách trình bày, thắt nút, đỉnh điểm, mở nút của một vở kịch. Sau phần giới thiệu đầu truyện (trình bày) dành cho hai nhân vật là Huấn Cao và quản ngục, mâu thuẫn bắt đầu hình thành khi ngục quan có ý biệt đãi tử tù trong khi Huấn Cao thì hiên ngang và tỏ ý thản nhiên coi khinh ra mặt. Mâu thuẫn ngày một căng thẳng nhất là khi Huấn Cao cố tình sỉ nhục ngục quan trong khi quản ngục vừa khổ tâm vừa nóng lòng sốt ruột xin chữ (thắt nút) và lên tới đỉnh điểm khi ngục quan nhận được công văn khẩn về việc chuyển các tử tù vào pháp trường trong Kinh chịu án. Nhưng cũng liền ngay đó, mâu thuẫn được giải quyết, xung đột được cởi bỏ (mở nút) khi Huấn Cao hiểu rõ tâm ý của quản ngục và quyết định cho chữ.
Như vậy, tình huống truyện không những làm nổi lên tính cách nhân vật, làm bật sáng chủ đề tác phẩm mà còn làm bật lên tính kịch khá hấp dẫn cho truyện.
- Hình tượng nhân vật Huấn Cao
Giữa cuộc đời cũng như trong nghệ thuật, Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ có lí tưởng thẩm mĩ và phong cách độc đáo. Đánh giá về Nguyễn Tuân, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng nói : Nguyễn là “một cái định nghĩa về người nghệ sĩ”. Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân nổi tiếng với “Vang bóng một thời” – tập truyện được xuất bản năm 1940, viết về những vẻ đẹp của “một thời” đã qua nay chỉ còn “vang bóng”. Trong tập truyện này, Chữ người tử tù được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất, kết tinh phong cách sáng tác và tài năng nghệ thuật của nhà văn. Chữ người tử tù là một truyện ngắn. Thế giới nhân vật ở đó không nhiều. Nhưng nhân vật nào cũng hiện lên thật sống động với số phận, tính cách và vẻ đẹp riêng. Điển hình là Huấn Cao – nhân vật trung tâm của tác phẩm.
Theo các nhà nghiên cứu, nhân vật Huấn Cao được xây dựng từ nguyên mẫu là Cao Bá Quát (1808-1855). Chữ “Huấn” ở đây là huấn đạo (giáo thụ) – chức quan phụ trách việc học ở một huyện. Cao Bá Quát đã từng làm chức giáo thụ ở Quốc Oai – Hà Tây. Còn “Cao” là họ của “thánh Quát”. Trong lịch sử nước ta, Cao Bá Quát không chỉ nổi danh là “văn hay chữ tốt” như đương thời truyền tụng “Thần Siêu, thánh Quát”, “Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán” mà còn nổi tiếng là người cương trực, quý trọng tài năng, có bản lĩnh, sống có lý tưởng và dám đương đầu với cường quyền. Con người ấy đã từng chịu cực hình tra tấn trong gần ba năm chỉ vì khi làm sơ khảo ở trường thi Thừa Thiên đã dùng muội đèn chữa những chỗ phạm trường quy trong 24 quyển thi đáng được lấy đỗ. Và cũng chính con người ấy đã cứng cỏi đứng lên tham gia lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Mĩ Lương chống lại triều đình nhà Nguyễn hèn yếu, lạc hậu để rồi hi sinh trong một trận đánh. Con người vừa tài hoa nghệ sĩ vừa cứng cỏi anh hùng, vừa là nhà nho uyên bác vừa là lãnh tụ nông dân khởi nghĩa như Cao Chu Thần, trong lịch sử nước ta, quả thật không nhiều. Chẳng phải thế mà Nguyễn Tuân đã chọn làm nguyên mẫu để xây dựng nên hình tượng Huấn Cao.
Tuy nhiên, Cao Bá Quát chỉ là một điểm tựa, một “chất liệu văn học” để Nguyễn Tuân xây dựng nên nhân vật của mình. Phần hư cấu, sáng tạo của nhà văn vẫn là chủ yếu bởi Huấn Cao đã xuất hiện trong tác phẩm theo đúng lý tưởng thẩm mĩ và quan niệm nghệ thuật của tác giả. Và đây mới chính là điểm mấu chốt tạo nên một hình tượng Huấn Cao đặc sắc, đọng lại được nhiều ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.
Trong truyện Chữ người tử tù, Huấn Cao nổi lên là một nghệ sĩ tài hoa hiếm có trong nghệ thuật thư pháp. Ngay từ đoạn văn mở đầu tác phẩm, thông qua một đối thoại ngắn giữa quản ngục và thầy thơ lại, nhà văn đã “gieo” trên trang văn một lời giới thiệu không thể thuyết phục hơn về tài năng của con người này. Đó là “cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”. Đây không phải là lời ngợi khen của một người mà là lời của người dân cả một tỉnh, tức là tài năng của ông Huấn từ lâu đã được công chúng rộng rãi thừa nhận. Tuy nhiên, với riêng ngục quan, tên tuổi và tài nghệ của “người đứng đầu bọn phản nghịch” ấy còn nhiều hơn thế. Không biết từ nguồn nào và từ bao giờ, viên quan coi ngục này đã biết “cái tài viết chữ tốt” của Huấn Cao : “Chữ của ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”. Và cũng đã từ rất lâu rồi, nhưng chưa bao giờ có dịp được nói ra, “cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do chính tay ông Huấn Cao viết… Có được chữ của ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời”. Về phía chủ quan, mong muốn ấy của quản ngục xuất phát từ thú chơi chữ của ông ta. Nhưng về phía khách quan, chữ của Huấn Cao phải đẹp lắm, quý lắm, phải là “báu vật” hiếm có trên đời mới có thể khiến viên quan coi ngục lần đầu tiên có cái nhìn “hiền lành” và tỏ rõ thái độ “kiêng nể” với sáu người tù mà thực chất chỉ là Huấn Cao. Đặc biệt, quản ngục sẵn sàng “biệt đãi” ông Huấn – điều mà cả ông ta và bất cứ ai cũng thừa hiểu là hành động phạm pháp, thậm chí bị quy vào tội đồng lõa với tội phạm. Với tội danh này, nặng thì bị xử tử giống như những phạm nhân kia, nhẹ thì mất nghiệp, khuynh gia bại sản. Điều ấy, một người đại diện cho pháp luật như quản ngục không thể không hiểu. Nhưng cái gì đã khiến ngục quan nhẫn nại, hạ mình, dám đánh đổi cả sự nghiệp, thậm chí cả tính mạng của mình đến như vậy ? Rốt cuộc chỉ có một điều cốt lõi, ấy là chữ của Huấn Cao – một “vật báu trên đời” và vì thế với những người có thú chơi chữ như quản ngục thì được treo chữ của ông Huấn là một trong những sự mãn nguyện lớn nhất trong cuộc đời. Có thể khẳng định, Nguyễn Tuân đã thành công khi miêu tả tài viết chữ của Huấn Cao. Cái giỏi của nhà văn là không có một từ nào miêu tả cụ thể về những chữ mà Huấn Cao đã viết, kể cả ở cảnh cho chữ cuối cùng, thế mà ấn tượng về tài năng của Huấn Cao, về người tử tù có phẩm chất nghệ sĩ, có tài nghệ hơn người vẫn đậm sâu trong lòng bạn đọc. Giống như thủ pháp “vẽ mây nảy trăng” thường thấy trong thơ, phương thức miêu tả gián tiếp của nhà văn đã có được hiệu quả nghệ thuật rõ nét trong trường hợp này.
Với những gì đã viết về Huấn Cao, nhất là qua thái độ, lời nói của nhân vật quản ngục, thơ lại, Nguyễn Tuân không hề giấu giếm thái độ say mê, cảm phục của mình đối với những người như ông Huấn. Đó là người “kết tinh” và tỏa sáng một trong những vẻ đẹp văn hoá truyền thống của dân tộc. Vẻ đẹp ấy, ở thời đại Nguyễn Tuân, lại đang có nguy cơ mai một, rất dễ thuộc về “một thời” đã qua nay chỉ còn “vang bóng”. Do đó, sáng tạo hình tượng Huấn Cao có thể xem là một phương thức nghệ thuật đắc dụng để nhà văn kín đáo thể hiện tình cảm yêu mến, trân trọng của mình đối với những giá trị văn hoá cổ truyền của đất nước. Đây chính là tinh thần dân tộc, là lòng yêu nước mang nét đặc trưng riêng của nhà văn. Không phải ngẫu nhiên, nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh – chuyên gia nghiên cứu về Nguyễn Tuân đã từng đánh giá khái quát : “Nguyễn Tuân là một trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Lòng yêu nước của ông có màu sắc riêng : gắn liền với những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc”.
Trong cuộc sống và nhất là trong nghệ thuật, tài năng không phải là thứ mà tạo hóa hay xã hội muốn có hoặc có thể ban phát cho tất thảy mọi người. Người có tài năng, năng khiếu nghệ thuật vốn đã không nhiều trong cuộc sống thì người vừa có tài vừa có tâm lại càng hiếm nữa. Mấy trăm năm trước, thi hào Nguyễn Du đã viết : “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Chính cái “tâm” sẽ làm cho cái tài được cất cánh cao hơn nữa, tỏa sáng hơn nữa. Trong Chữ người tử tù, Huấn Cao đâu chỉ có tài viết chữ mà còn có đạo đức và văn hóa của một người nghệ sĩ thư pháp, một nhân cách cao thượng trong đời sống.
Đạo đức của Huấn Cao thể hiện trước tiên ở lòng tự trọng, ở chỗ biết giữ lấy cái tài, biết trân trọng tài năng đích thực của mình và biết dùng nó đúng lúc đúng chỗ. Con người ấy “nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Cả đời Huấn Cao cho đến trước khi cho chữ viên quản ngục mới chỉ “viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường” cho “ba người bạn thân”. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, Huấn Cao cũng giữ trọn “thiên lương” của mình. Khi chưa hiểu con người của quản ngục, Huấn Cao không hề tỏ ra sợ hãi, càng không vì cái “uy vũ” đó để phải quỳ xuống viết chữ. Ông cũng không tỏ ra mềm lòng, thỏa hiệp, nhún mình viết câu đối trước sự “biệt đãi” của ngục quan. Ngay cả khi đã hiểu rõ con người của quản ngục và đã cho chữ viên quan này thì điều mà Huấn Cao khuyên bảo, mong muốn ở ngục quan là “giữ thiên lương cho lành vững”, đừng để “nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Đó đích thực là một tâm hồn trong sáng, cao đẹp, một biểu tượng của “thiên lương” lành vững mà thời đại nào cũng cần.
Cái tâm của Huấn Cao không chỉ hiện ra ở đạo đức của người nghệ sĩ mà còn bộc lộ ở cách ứng xử cao thượng và đầy tinh thần văn hóa. Đọc tác phẩm, ai cũng thấy Huấn Cao đã phản ứng dữ dội như thế nào trước hành động muốn “biệt đãi” ông của quản ngục. Nhưng đấy là khi ông chưa thực sự hiểu được bản chất của con người này. Đến khi đã hiểu được con người bên trong của ngục quan, khi đã “cảm” được “cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài” của viên quan coi ngục thì Huấn Cao đã nhanh chóng bỏ qua những nghi kị trước đó, vui vẻ tự nguyện cho chữ. Lời của Huấn Cao : “Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ” đã bộc lộ lẽ sống của ông : sống là phải xứng đáng với những tấm lòng tri kỉ, phụ tấm lòng cao đẹp của người khác là không thể tha thứ. Rõ ràng, đối với những người biết quý trọng cái tài, cái đẹp trên đời, Huấn Cao đâu có nề hà, đã không biết thì thôi chứ biết thì nhất định không “phụ tấm lòng trong thiên hạ”. Đấy chính là lẽ sống cao đẹp, là cách xử thể tràn đầy tinh thần văn hóa ở Huấn Cao, cũng là bài học về đạo lý, lẽ sống cho mỗi người trên đời. Xem ra, chuyện xin chữ – cho chữ ở đây không còn là thú chơi nữa mà là chuyện của lẽ sống và đạo đức của con người trong cuộc sống.
Không giống như nhiều nhân vật tài hoa, tài tử khác trong Vang bóng một thời, Huấn Cao có hai con người trong một con người : con người tài hoa nghệ sĩ với cái tâm trong sáng và con nguời anh hùng dũng liệt, có khí phách hiên ngang. Đấy là một người dám chống lại triều đình mục ruỗng mà ông căm ghét. Thái độ này không thay đổi kể cả khi ông nhận được thông báo sẽ bị giải vào Kinh để chịu án tử hình. Là kẻ chiến bại nhưng Huấn Cao không hề đánh mất khí phách của mình. Ngay từ đầu tác phẩm, điều đó đã được thể hiện qua hành động “rỗ gông”. Huấn Cao đã bất chấp lời doạ dẫm của tên lính áp giải, “lạnh lùng chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Cũng chính con người ấy đã “thản nhiên nhận rượu thịt” coi như “việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình”, thậm chí còn “cố ý làm ra khinh bạc đến điều” đối với viên quản ngục mà không hề sợ “một trận lôi đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo của quan ngục bị sỉ nhục”. Ngay cả khi được tin “ngày mai, tinh mơ” sẽ “về kinh chịu án tử hình”, Huấn Cao cũng chỉ “lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười”. Rõ ràng, Huấn Cao có phong độ của một trang anh hùng dũng liệt, có khí phách hiên ngang của kẻ “chọc trời quấy nước” trên đầu “chẳng còn biết có ai nữa” (như chính quản ngục đã phải thừa nhận), có cái khí khái của đấng nam nhi coi cái chết “nhẹ tựa hồng mao”.
Huấn Cao đúng là một nhân vật đặc biệt của Nguyễn Tuân. Ở con người này có sự hội tụ của ba phẩm chất, cũng là ba vẻ đẹp đáng trân trọng của con người : “tài” – “tâm” – “dũng”. Ba vẻ đẹp ấy hòa quyện với nhau và tỏa sáng rực rỡ trong cái đêm Huấn Cao cho chữ quản ngục.
Điểm hội tụ của tài năng nghệ sĩ và khí phách nghĩa sĩ của Huấn Cao trước hết là ở tư thế. Tuy phải bó buộc trong hình hài của một phạm nhân: “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” nhưng Huấn Cao vẫn có cái tư thế của một người nghệ sĩ thư pháp. Con người ấy đang dồn tinh lực để viết nên những “dòng chữ cuối cùng” cho đời – những dòng chữ “nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Tương phản với hình ảnh Huấn Cao là hình ảnh của ngục quan và thơ lại – những kẻ đại diện cho uy quyền, pháp luật đương thời, nắm trong tay quyền sinh, quyền sát nhưng lại đang “khúm núm”, “run run” trước từng nét chữ của Huấn Cao. Chính sự tương phản này đã gián tiếp khắc họa cái hiên ngang, khí phách của người tử tù. Đồng thời cho thấy trong khoảnh khắc này, tại chính gian nhà ngục này không phải cái ác, cái xấu đang làm chủ mà chính là cái đẹp, cái tài của người nghệ sĩ đang tỏa sáng, hùng tâm, tráng chí của người anh hùng đang được tôn vinh.
Như mọi dòng sông đều chảy về biển, ở Huấn Cao, nơi hội lưu của thiên lương trong sáng và nhân cách con người viết hoa – CON NGƯỜI dừng lại ở một lời khuyên chí tình dành cho quản ngục : “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét vuông tươi tắn […] Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”. Lời khuyên này giống như một di huấn – di huấn của người nghệ sĩ truyền lại cho đời và hậu thế : muốn chơi chữ thì trước hết phải giữ lấy “thiên lương”. Chữ nghĩa và “thiên lương” không thể chung sống với cái ác, cái xấu, đừng để những cái cao quý ấy bị hoen ố, bị mất đi ở chốn ngục tù đen tối tàn bạo. Trong “di huấn” của người tử tù tài hoa nghệ sĩ, lời nói sau đây ngỡ như lời nói thông thường, vậy mà xem ra cũng đầy ngụ ý, đầy sức gợi : “Thoi mực, thầy mua ở đâu mà tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?…”. Đây đâu phải chỉ là lời khen tặng của Huấn Cao dành cho ngục quan – kẻ không chỉ có “sở nguyện cao quý” mà còn rất “chịu chơi”; đó cũng chẳng hoàn toàn là lời gợi nhắc của Huấn Cao với quản ngục, rằng : cần phải biết cảm nhận mùi thơm của mực, của chữ nghĩa, mà thâm ý sâu xa trong câu nói ấy là : Phải biết nhận ra trong mực, trong chữ cái “hương vị của thiên lương”. Cái gốc của chữ, xét cho cùng, là “thiên lương” đó thôi. Chơi chữ không chỉ là chuyện chữ nghĩa mà trên hết đó là chuyện về cách sống, chuyện văn hoá, là đạo làm người chân chính của bậc quân tử. Ta hiểu vì sao trước những lời nói và lời khuyên chí tình này của ông Huấn, ngục quan đã “cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Có thể khẳng định, chính nhân cách cao thượng và cách hành xử đầy tinh thần trượng nghĩa, văn hóa của Huấn Cao đã khiến ngục quan thực sự cảm phục. Đó cũng là chiến thắng của cái đẹp, cái thiện, của “thiên lương”, là sự chứng thực hùng hồn cho một chân lý : giữa nơi tưởng như chỉ có thể tồn tại cái ác, cái xấu, tài năng và phẩm giá cao cả của con người vẫn tìm thấy không gian, thời gian để sinh tồn và tỏa sáng. Không gian ấy, dù chỉ là một nhà ngục tăm tối, bẩn thỉu. Thời gian ấy, dù chỉ là khoảnh khắc cuối trong cuộc đời một con người. Đấy là gì nếu như không phải là lí tưởng thẩm mĩ, là niềm tin mãnh liệt của nhà văn vào những điều tốt đẹp trên đời.
Như ta đã biết, xây dựng hình tượng Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu là Chu thần Cao Bá Quát. Trong thực tế lịch sử, “thánh Quát” đã bỏ mình nơi chiến địa trong cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình phong kiến. Nhưng với Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã “kéo dài cuộc đời Cao Bá Quát” bằng cuộc gặp gỡ thú vị giữa người tử tù có tài viết chữ đẹp với viên quản ngục – kẻ đại diện pháp luật đương thời nhưng khát khao ánh sáng chữ nghĩa. Sáng tạo này là chỗ nhà văn gửi gắm lí tưởng thẩm mĩ và quan điểm nghệ thuật của mình.
Đọc truyện Chữ người tử tù, có thể thấy Nguyễn Tuân đã sử dung bút pháp lãng mạn, lí tưởng hóa để miêu tả hình tượng Huấn Cao. Đó là người có vẻ đẹp toàn diện : vẻ đẹp của tài năng – vẻ đẹp của tâm hồn – vẻ đẹp của khí phách. Vẻ đẹp ấy hiện lên lồng lộng trên nền tăm tối của ngục tù và trong sự kính nể, tôn vinh của những kẻ đại diện cho luật pháp đương thời. Hình ảnh Huấn Cao gắn liền với cái đẹp, với ánh sáng và cái thiện. Những cái đó cũng bật nổi trong ưu thế và sự lấn át cái xấu, bóng tối và cái ác. Đó là những biểu hiện khác nhau của thủ pháp tương phản – thủ pháp đã được sử dụng rất hiệu quả trong tác phẩm.
Cũng như nhiều sáng tác khác, ngôn ngữ miêu tả của Nguyễn Tuân trong Chữ người tử tù rất đậm chất “điện ảnh”. Nhiều đoạn như những thước phim quay chậm, sắc nét, chậm rãi, hiển hiện từng nét cảnh vật, từng hành động của nhân vật. Ngôn ngữ miêu tả nhân vật Huấn Cao cũng thế. Những đoạn tả ông Huấn như đoạn “rỗ gông”, đoạn “cho chữ”… đều có thể coi là những “thước phim ngắn” về nhân vật này. Từng hành động, điệu bộ, cử chỉ của Huấn Cao cứ dần dần, chậm rãi hiện ra qua lớp ngôn từ vừa cổ kính vừa hiện đại của nhà văn.
Tóm lại, Huấn Cao là một trong những hình tượng nhân vật đẹp nhất của nhà văn Nguyễn Tuân. Hình tượng này thể hiện khá rõ quan niệm thẩm mĩ của nhà văn : cái Đẹp phải là sự kết hợp giữa cái tâm và cái tài. Gốc của cái đẹp cũng như cái gốc của chữ nghĩa chính là “thiên lương”. Cái đẹp, dù trong hoàn cảnh nào, cũng sẽ luôn vươn lên và tỏa sáng. Nó không chấp nhận sống chung với cái ác, cái xấu. Cái đẹp chân chính có sức mạnh cảm hóa con người. Qua tư tưởng nghệ thuật về cái Đẹp, nhà văn thiết tha gửi đến bạn đọc thông điệp : dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải sống đẹp, phải giữ gìn “thiên lương” cho lành vững. Mà sống đẹp không thể không gắn liền với cách ứng xử văn hóa, một trong những cách ứng xử ấy là thái độ tôn trọng tài năng và phẩm giá của con người. Biết “biệt nhỡn liên tài” cũng chính là biết sống một cách nhân văn và đầy tinh thần văn hóa.
Nhân vật viên quản ngục
Cũng giống như Huấn Cao, nhân vật viên quản ngục được nhà văn xây dựng từ tình huống độc đáo của truyện. Đó là cuộc gặp gỡ khác thường của hai con người khác thường : viên quản ngục – kẻ đại diện cho bạo lực tăm tối nhưng lại rất khát khao ánh sáng của chữ nghĩa với Huấn Cao – người tử tù có tài viết chữ đẹp nổi tiếng. Lẽ ra đây phải là cuộc hội ngộ tương đắc của những kẻ biệt nhỡn liên tài, của hai tâm hồn nghệ sĩ yêu cái đẹp. Nhưng thật oái oăm, họ lại phải gặp nhau giữa chốn ngục tù và trong một tình thế éo le : cuộc chạm trán giữa một tên “đại nghịch”, cầm đầu cuộc nổi loạn đang đợi ngày ra pháp trường với kẻ đại diện cho trật tự xã hội đương thời. Như thế, trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm, tri kỉ. Trên bình diện xã hội, họ là những kẻ đối địch nhau. Hơn nữa, ở một khía cạnh khác đây còn là sự đối mặt giữa hai loại nhà tù, hai kiểu tù nhân: một người tự do về nhân thân nhưng bị cầm tù về nhân cách, người kia luôn tự do về nhân cách nhưng lại bị cầm tù về nhân thân. Chọn lựa một tình huống như vậy, Nguyễn Tuân đã đặt quản ngục trước một sự lựa chọn có tính xung đột: Hoặc làm tròn bổn phận một viên quan thì phải chà đạp lên tấc lòng tri kỉ. Hoặc muốn trọn đạo tri kỉ thì phản lại bổn phận nhà nước của một viên quan- nghĩa là phải bất chấp những phép tắc, trật tự xã hội. Quản ngục sẽ hành động theo hướng nào? Ẩn số sẽ được nhà văn dần dần giải đáp.
Là một người làm nghề quản ngục, sống trong thế giới ngục tù, giữa những gông xiềng, tội lỗi, hàng ngày phải làm và chứng kiến bao điều tàn nhẫn, lừa lọc, ngục quan không thể không chịu những tác động của cái cảnh sống ấy. Việc phải sống “giữa một đống cặn bã”, “phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt” đã khiến viên quan coi ngục này ít nhiều bị nhiễm những thói xấu thông thường của chốn tù ngục dù trong tác phẩm điều đó hiện ra một cách kín đáo. Đấy là “cặp mắt hiền lành” “trái với phong tục nhận tù mọi ngày”; là “những mánh khóe hành hạ thường lệ” – những “chiêu” lừa lọc, những thủ đoạn dọa dẫm, những “đòn đánh phủ đầu”… những cái vẫn thường được quản ngục cho thi hành tại cái nhà ngục này và đã thành thói quen đến mức bọn lính hết sức ngạc nhiên khi không thấy ngục quan cho áp dụng với Huấn Cao và “năm bạn đồng chí của ông”. Chính sự bất thường trong cách đối xử với Huấn Cao của ngục quan đã cho thấy cái thông thường trong cách hành xử “bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc” ở viên quản ngục và cả cái nhà tù này. Thái độ “ngạc nhiên”, “nhìn nhau và không hiểu” của bọn lính trước cách ứng xử trái với lẽ thường của ngục quan là bằng chứng về những tác động tiêu cực của chốn ngục tù “cặn bã” đối với tính cách của viên quan coi ngục này. Nói cách khác, trên bình diện nghề nghiệp, tính cách viên quản ngục đã ít nhiều bị cái hoàn cảnh sống và làm việc của mình chi phối.
Tuy nhiên, Nguyễn Tuân không dành nhiều tâm sức để miêu tả cụ thể những biểu hiện tiêu cực của ngục quan trong công việc quản lao tù hằng ngày mà ông tập trung làm hiện lên đời sống nội tâm bên trong và bản chất thật của nhân vật. Theo cách miêu tả đầy sức ám gợi của nhà văn thì quản ngục là “một thanh âm trong trẻo chen giữa vào một bản đàn mà nhạc luật đều hồn độn xô bồ”. Đó là người có “tính cách dịu dàng và lòng biết giá người”, một “người thẳng thắn” nhưng “phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt”. Nghĩa là quản ngục đã lầm đường khi chọn nghề nghiệp cho mình. Bản chất con người thật của ông ta đúng ra phải ở một chỗ nào khác thanh cao hơn, chứ không phải ở chốn này. Đã không dưới một lần quản ngục suy nghĩ, trăn trở về bi kịch chọn sai nghề của bản thân : “Có lẽ lão bát này cũng là một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn không phải là kẻ xấu hay vô tình”. Lời than thở, bộc bạch ấy đã cho thấy một sự thật : quản ngục vẫn chưa hoàn toàn đánh mất mình, ở ông ta vẫn còn giữ được những vẻ đẹp thiên lương trong sáng.
Có thể nói, là quản ngục nhưng ông ta cũng chính là tù nhân chung thân của cái nhà ngục do chính ông đang cai quản. Cái danh, cái lợi, trách nhiệm, bổn phận của một ông ngục quan là những thứ gông cùm, xiềng xích vô hình xiết chặt tâm hồn quản ngục suốt đời. “Lũ người quay quắt”, “cái đống cặn bã” bao quanh ông chẳng khác gì nơi buồng tối giam tử tù. Tuy nhiên, nhân vật quản ngục không chỉ là kẻ thi hành phận sự. Những chi tiết khắc họa đời sống nội tâm của quản ngục với khuôn mặt tỏ rõ sự “nghĩ ngợi đăm chiêu” , “băn khoăn bóp thái dương”, “những đường nhăn nheo của một bộ mặt tư lự giờ biến mất hẳn. Ở đấy, giờ chỉ còn là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ” cho thấy viên quan “cai tù” này không giống với bất cứ một tên “cai tù” nào trong bộ máy thống trị đương thời. Ẩn sâu trong cái vỏ bọc “cai ngục”, đằng sau những “mánh khóe hành hạ thường lệ” còn có một quản ngục với những khoảnh khắc tâm hồn thánh thiện, thanh khiết, dịu êm như mặt nước ao xuân.
Là một người làm nghề coi ngục, là công cụ trấn áp của bộ máy thống trị đương thời, nhưng viên quản ngục lại có một thú chơi tao nhã : chơi chữ. Đó là một con người có tâm hồn nghệ sĩ. Ngay từ khi còn trẻ, khi mới “biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền”, quản ngục đã có cái sở nguyện “một ngày kia được treo ở riêng nhà mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết”. “Có được chữ của ông Huấn mà treo là có một vật báu trong đời”. Quản ngục sẵn sàng “biệt đãi” ông Huấn – điều mà cả ông ta và bất cứ ai cũng thừa hiểu là hành động phạm pháp, thậm chí bị quy vào tội đồng lõa với tội phạm. Với tội danh này, nặng thì bị xử tử giống như những phạm nhân kia, nhẹ thì mất nghiệp, khuynh gia bại sản. Nhưng điều gì đã khiến ngục quan nhẫn nại, hạ mình, dám đánh đổi cả sự nghiệp, thậm chí cả tính mạng của mình đến như vậy ? Rốt cuộc chỉ có một điều cốt lõi, ấy là chữ của Huấn Cao – “vật báu trên đời”. Cũng chính vì điều này mà trong những ngày ngắn ngủi khi ông Huấn bị tam giam trong ngục, quản ngục luôn sống trong tình trạng vô cùng căng thẳng. Y thừa biết rằng tính ông Huấn Cao vốn khoảnh “trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. Viên quản ngục luôn sống trong sự dằn vặt, nỗi khổ tâm, lo lắng vì mai mốt “ông Huấn bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ thì ân hận suốt đời”. Những tâm trạng ấy của quản ngục cho thấy cái sở nguyện chơi chữ của ông không chỉ dừng lại ở sự thỏa mãn sở thích cá nhân mà quan trọng hơn đó là một con người biết trân trọng những giá trị văn hóa của dân tộc
Là người có “sở nguyện cao quý” quản ngục cũng đồng thời là kẻ biết quý trọng người tài hoa khí phách, “biệt nhỡn liên tài”. Chưa gặp Huấn Cao lần nào nhưng lòng ông đã một mực kính phục. Rồi khi nhận tù, trái hẳn với ngày thường, y nhìn tù nhân với con mắt “hiền lành”, “lòng kiêng nể”. Sự biệt đãi của quản ngục đối với Huấn Cao là một hành động xuất phát từ lòng say mê cái đẹp và mến trọng khí khách. Ngục quan đã tự hạ mình xuống trước người tử tù. Tiếp cận với tử tù, ngục quan chân thành ngỏ ý : “Ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất…”. Bị tử tù nặng lời “Ngươi đừng bao giờ đặt chân vào đây” với thái độ “khinh bạc đến điều” ngục quan nhẫn nhục chấp nhận mà không hề oán thù, không giở trò tiểu nhân thị oai. Y chỉ lễ phép rút lui ra với một câu “xin lĩnh ý”. Y cũng thừa hiểu rằng Huấn Cao là người “chọc trời quấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng chẳng cần biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”. Rõ ràng, quản ngục là một người rất biết “giá người”, biết trọng người ngay. Đó là biết mình biết ta, hiểu đời hiểu người, biết nhận ra đâu là cái tài, cái đẹp đích thực. Và đặc biệt ngục quan biết trân trọng, nâng niu những người tài, những cái đẹp mà y biết là “có một không hai” trên đời. Từ đây, có thể nói, ngục quan không “lớn” vì uy quyền mà “đẹp” ở nhân cách, ở tâm thế của một kẻ sĩ biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền
Vẻ đẹp của ngục quan (cũng như Huấn Cao) một lần nữa được tỏa sáng trong cảnh cho chữ. Nhân cách và sở nguyện cao đẹp của quản ngục cuối cùng cũng đã được Huấn Cao thấu hiểu, chia sẻ và trân trọng. Trước khi ra pháp trường, qua lời của viên thơ lại, Huấn Cao đã nói : “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Trước lời khuyên chân thành của Huấn Cao, quản ngục đã khúm núm vái lạy, nhỏ dòng nước mắt nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Cái vái lạy và dòng nước mắt đã không làm cho quản ngục trở nên nhỏ bé, đê hèn mà ngược lại làm cho hình tượng này trở nên đẹp hơn về nhân cách. Theo GS. Nguyễn Đăng Mạnh “Chính Cao Chu Thần, nguyên mẫu của nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù, có một câu thơ thật đẹp, thật sang: “Nhất sinh đê thủ bái mai hoa” (Một đời chỉ biết cúi đầu vái lạy hoa mai). Cái cúi đầu của thầy quản ngục vái lạy Huấn Cao chính là cái cúi đầu của Cao Bá Quát trước hoa mai vậy’’ .
Có thể nói, diến biến nội tâm hành động và cách ứng xử của viên quản ngục cho thấy quản ngục là một người có nhân cách đẹp, là “một tấm lòng trong thiên hạ”, xứng đáng là tri âm, tri kỉ với Huấn Cao. Đó đích thị là “một thanh âm trong trẻo chen lẫn một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn độn xô bồ”. Quản ngục là một con người biết giữ “thiên lương”, biết trân trọng giá trị văn hóa, tài năng, là người có tâm hồn nghệ sĩ, không có tài nhưng yêu tài, không sáng tạo ra cái đẹp nhưng biết yêu và trân trọng cái đẹp. Quản ngục đúng là một nhân vật của Nguyễn Tuân.
- Cảnh cho chữ
Có những tác phẩm văn chương khiến ta sững sờ trước cái đẹp, trước tài năng. Có những đoạn văn làm ta ngạc nhiên trước một nhân cách cao cả, một bút pháp tinh luyện. Đoạn văn tả cảnh cho chữ trong nhà giam ở cuối thiên truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là một trong số những trường hợp như thế.
Cốt truyện của Chữ người tử tù được xây dựng trên một cuộc gặp gỡ khác thường của hai con người cũng thật khác thường. Là kẻ đại diện cho bạo lực tăm tăm tối, quản ngục lại rất khát khao ánh sáng của chữ nghĩa. Kẻ ấy đã gặp được một người viết chữ nổi tiếng mà mình vốn nghe danh, vốn tôn kính lâu nay. Lẽ ra đây phải là một cuộc hội ngộ tương đắc giữa những kẻ biệt nhỡn liên tài. Song, thật oái oăm, hai nhân cách khác thường này lại gặp nhau nơi nhà ngục và cuộc gặp gỡ ấy trở thành cuộc chạm trán giữa một người tử tù và một viên quan coi ngục. Huấn Cao càng lạnh lùng, càng tỏ ra bất cần thì viên quản ngục lại càng cháy bỏng cái sở nguyện được chữ. “Có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời”. Bởi tâm niệm ấy, ông ta thêm nhún nhường, nhã nhặn ngay cả khi bị Huấn Cao xua đuổi. Nguyễn Tuân thật khéo tạo tình huống kịch và nhanh chóng đẩy nó đến cao trào. Nút kịch được thắt lại ở chi tiết quản ngục bỗng nhận được công văn khẩn của quan Hình bộ thượng thư giữa một buổi chiều lạnh. Ngày mai, sớm tinh mơ, sẽ có người đến lĩnh tù. Pháp trường lập ở trong Kinh. Đến đây, người đọc băn khoăn trước các câu hỏi: Liệu cho đến khi từ giã cõi đời, Huấn Cao có hiểu được tấm lòng tốt của quản ngục hay không? Cái ước nguyện thiết tha, chính đáng của quản ngục có được Huấn Cao chấp thuận chăng? Đặt trong dòng cốt truyện, trong kết cấu của tác phẩm, cảnh cho chữ trong nhà giam có vai trò “cởi nút”, giải tỏa. Từ đây, nổi bật lên vẻ đẹp kì vĩ của các nhân vật, nổi bật lên lí tưởng thẩm mĩ của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân.
Nhà văn đã gọi cảnh cho chữ là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Quả là như vậy, không gian cho chữ “xưa nay chưa từng có”. Đã bao giờ cảnh cho chữ “bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián” chưa ? Đã bao giờ ánh sáng để viết chữ tỏa ra từ một bó đuốc tẩm dầu, khói bốc mù mịt khiến mọi người dụi mắt lia lịa ? Chắc chắn là cũng chưa. Nhưng vào cái đêm khuya hôm ấy, trong trại giam tỉnh Sơn đã diễn ra một sự kiện đáng ghi tạc trọn đời đối với ba tấm lòng cao cả trong thiên hạ : cho chữ – xin chữ thánh hiền.
Trong thời gian, không gian, ánh sáng xưa nay chưa từng có ấy, tư thế của những con người cho chữ và nhận chữ cũng “xưa nay chưa từng có”. Người cho chữ “cổ” vẫn “đeo ngông, “chân” vẫn “vướng xiềng” nhưng tư thế thì hiên ngang, hành động thì nghĩa hiệp, đang phóng bút sáng tạo ra cái đẹp cho đời. Tương phản với tư thế, hành động của người tử tù, viên quản ngục – kẻ đầy uy quyền ở cái nhà lao ấy – lại đang “khúm núm” cất những đồng tiền kẽm còn thầy thơ lại – kẻ có lẽ chỉ dưới một người, trên nhiều người ở cái nhà ngục ấy – thì “run run bưng chậu mực”. Cả hai người này đang xúc động, trân trọng và đầy ngưỡng mộ trước hành động cao cả của Huấn Cao.
Hoàn cảnh cho chữ, tư thế của những con người cho chữ và nhận chữ “xưa nay chưa từng có” nêu trên đã làm nổi bật tính chất “chưa từng có” của cuộc gặp gỡ này. Đây là lần đầu tiên, nhưng thật đau xót – cũng là lần cuối cùng, ba con người này đồng thời gặp nhau với con người thật của mình. Rất nhiều lần trước họ chỉ gặp nhau tay đôi (theo từng cặp). Gặp nhau mà đâu đã thực hiểu lòng nhau. Gặp nhau theo con người chức phận Nhà nước, con người nghĩa vụ. Giờ đây, Huấn Cao ở cương vị người cho chữ, người truyền dạy. Quản ngục được ở vị trí người nhận chữ, được thỏa mãn ước nguyện của mình bấy lâu nay. Đâu còn kẻ tử tù. Đâu còn quan cai ngục. Lúc này chỉ có những tấm lòng biệt nhỡn liên tài đang rung cảm với những nét chữ vuông vắn trên tấm lụa trắng tinh còn nguyên vẹn lần hồ.
Toàn bộ đoạn văn tả cảnh ông Huấn Cao cho chữ toát lên vẻ đẹp của những tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”, của cách hành xử cao thượng, đầy tinh thần văn hóa. Phân tích đoạn văn này, có người cho rằng ở đây đã diễn ra một sự thay bậc đổi ngôi. Thật ra, đó chỉ là nhìn trên bề mặt hình thức. Suốt từ đầu truyện tới lúc này, tuy là một kẻ tử tù đấy nhưng Huấn Cao có bao giờ chịu ở “bậc dưới” và quản ngục cũng đâu đặt mình ở “ngôi trên” bao giờ. Nhấn mạnh sự thay bậc đổi ngôi nghĩa là muốn khẳng định tính đột biến, đột xuất của cảnh tượng cho chữ. Kì thực, đây là bước nhảy vọt về chất đã có quá trình tích lũy về lượng. Nó là bước hội ngộ tất yếu và đẹp đẽ nhất giữa những kẻ biệt nhỡn liên tài. Hãy chú ý tới cái điệu bộ, cử chỉ của ông Huấn trước khi cất lời khuyên quản ngục: Huấn Cao “đỡ viên quản ngục đứng thẳng người dậy” rồi mới “đĩnh đạc bảo”. Rõ ràng, ông Huấn không muốn hạ thấp quản ngục và tôn lên vị thế của bản thân. Trái lại, đỡ viên quản ngục dậy, Huấn Cao đã tạo ra cái thế bình đẳng trong quan hệ của những tấm lòng yêu cái đẹp. Đấy là thái độ tôn trọng, yêu mến những người biết yêu cái tài, mến cái đẹp của Huấn Cao. Và hãy chú ý giọng điệu của Huấn Cao nữa khi ông cất lời dặn dò viên quản ngục : “Ta khuyên thầy quản nên thay chốn ở đi… Tôi bảo thực đấy…”. Đó đâu giống cái giọng kẻ cả một đấng bề trên đang dạy bảo mà đúng hơn là cử chỉ, lời lẽ của một tấm lòng bè bạn, của những tri âm, tri kỉ, hiểu rõ tấm chân tình và bản chất con người của nhau.
Lời Huấn Cao khuyên quản ngục hay chính là lời nghệ sĩ Nguyễn Tuân muốn nhắn tới người đời lúc bấy giờ : “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét vuông tươi tắn […] Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”. Muốn chơi chữ, phải giữ lấy thiên lương. Trong môi trường của cái ác, cái đẹp khó thể tồn tại vững bền. Chữ nghĩa và thiên lương không thể chung sống với lũ người quay quắt nơi chốn ngục tù đen tối tàn bạo. “Thoi mực, kiếm được ở đâu tốt và thơm lắm. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?…”. Lời nói này của Huấn Cao đầy ngụ ý, đầy sức gợi. Mấy người thưởng thức được mùi thơm của mực ? Hãy biết tìm trong mực, trong chữ hương vị của thiên lương. Cái gốc của chữ nghĩa chính là thiên lương đó thôi. Cho đến khi sắp từ giã cõi đời, Huấn Cao càng thiết tha mong ước những người còn sống hãy sáng ra lẽ ấy.
Huấn Cao chết nhưng chữ Huấn Cao còn. Hành động và lời dạy của Huấn Cao đã cảm hóa được viên quản ngục. Chi tiết kết thúc cảnh cho chữ càng gợi không khí lắng đọng, thiêng liêng làm sao: “Ba người nhìn bức châm, rồi lại nhìn nhau. Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Đã một lần trước, viên quản ngục nhã nhặn “xin lĩnh ý” khi bị Huấn Cao lạnh lung đuổi khỏi buồng giam. Nhưng đó là lần nhẫn nhục, lần cam chịu. Lần bái lĩnh này là kết quả của sự bừng tỉnh, sự giác ngộ. Chiến thắng đã thuộc về cái đẹp, cái cao thượng. Ngay giữa nơi tưởng chỉ có thể tồn tại cái xấu, cái ác, cái tài năng và nhân cách cao cả của con người vẫn có thể tìm thấy không gian, thời gian để tồn tại và chiến thắng. Không gian ấy, dù chỉ là một nhà ngục tử tù. Thời gian ấy, dù chỉ là đêm cuối trong cuộc đời một con người. Đó chính là lí tưởng thẩm mĩ, là niềm tin đáng quí của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân trong hoàn cảnh xã hội đen tối, tù túng thời bấy giờ.
Cảnh tượng cho chữ cuối thiên truyện “Chữ người tử tù” là một kết thúc có hậu. Nó giúp người đọc thêm yêu mến một nét đẹp trong truyền thống văn hóa của dân tộc. Nó giáo dục cách ứng xử văn hóa, thái độ tôn trọng tài năng. Nó gieo vào lòng ta một niềm tin vào sự bất diệt của thiên lương… Nhưng kết thúc có hậu, có tính tất yếu mà vẫn chứa đựng sự bất ngờ. Cái cảm giác thỏa mãn mà đoạn văn đem lại cho ta không chút dễ dàng. Đó là kết quả của sự chờ đợi, của những âu lo, hồi hộp. Nó như sự bừng sáng, bừng ngộ để bỗng thêm khâm phục, ngỡ ngàng. Đoạn văn là đỉnh điểm sáng tạo xuất sắc của Nguyễn Tuân ở Chữ người tử tù, khiến ta “bái lĩnh” vẻ đẹp của một tư tưởng, tài hoa của một nghệ sĩ.
Đánh giá về đoạn văn tả cảnh ông Huấn Cao cho chữ, nhiều nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng đó là một đoạn văn rất giàu “chất điện ảnh”. Đoạn văn giống như một thước phim ngắn, chậm rãi. Cứ sau mỗi câu văn, từng hình ảnh của sự vật, từng động tác của con người lại hiện ra một cách rõ ràng và sống động, cứ như thể ta đang xem một đoạn phim trong rạp chiếu bóng : “…trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột phân gián […] Trong không khí khói toả như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván…”. Sự xuất hiện của từng sự vật, hình ảnh con người trong “thước phim” này dường như cũng đã được người “đạo diễn Nguyễn Tuân” cố ý sắp xếp theo chiều hướng đi từ bóng tối đến ánh sáng – cảnh cho chữ bắt đầu được đặc tả bởi sự bao phủ của bóng tối nhà lao… rồi dần dần nhen lên và rực rỡ ánh sáng; và từ hôi hám, nhơ bẩn đến mùi thơm và cái đẹp : cảnh Huấn Cao cho chữ hiện ra trong một buồng tối “bừa bãi phân chuột, phân gián” để rồi khép lại với chi tiết “mùi thơm của chậu mực bốc lên” và những con chữ được sinh thành. Mỗi nét chữ hiện hình là cái đẹp nảy sinh. Cùng với nghệ thuật dựng cảnh, dựng người thủ pháp tương phản cũng được nhà văn sử dụng một cách triệt để và hiệu quả. Sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối; giữa cái hỗn độn, xô bồ, nhơ bẩn của cảnh nhà giam với cái thanh khiết, cao cả của nền lụa trắng, nét chữ đẹp đẽ; giữa kẻ tử tù đang ban phát cái đẹp và cái thiện với viên quan coi ngục đang khúm núm, lĩnh hội, vái lạy… Tất cả đã làm nổi bật hình ảnh Huấn Cao, khẳng định sự chiến thắng ánh sáng đối với bóng tối, cái đẹp đối với cái xấu xa, nhơ bẩn, cái thiện đối với cái ác.
PHẦN 2 : CÂU HỎI, BÀI TẬP ÔN LUYỆN VÀ GỢI Ý TRỞ LỜI
Câu hỏi tái hiện
- Tình huống truyện Chữ người tử tù là gì ? Tính chất éo le của tình huống truyện thể hiện ở đâu ? Tình huống này có tác dụng như thế nào trong việc thể hiện tính cách nhân vật và chủ đề thiên truyện ?
(Xem trên)
- Sau khi cho chữ, Huấn Cao đã khuyên ngục quan điều gì ? Ý nghĩa tư tưởng mà nhà văn muốn thể hiện sau lời khuyên ấy của nhân vật chính ?
- Viên quản ngục đã có hành động và thái độ như thế nào trước lời khuyên của Huấn Cao ? Qua chi tiết này, nhà văn muốn thể hiện điều gì ?
- Qua nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân muốn nêu lên quan niệm nào về cái đẹp ?
Trong Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã tập trung khắc họa vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao. Vẻ đẹp ấy là hài hòa của ba phương diện : tài hoa nghệ sĩ (tài viết chữ đẹp) – nhân cách trong sáng, cao cả (thiên lương lành vững, biệt nhỡn liên tài) – khí phách hiên ngang (một trang anh hùng dũng liệt). Đây là vẻ đẹp lãng mạn, vẻ đẹp được lí tưởng hóa và được thể hiện một cách khác thường trong hoàn cảnh tưởng chừng như không thể nào xảy ra được.
Qua hình tượng nhân vật Huấn Cao, nhà văn bộc lộ quan niệm của mình về cái Đẹp : cái Đẹp phải là sự kết hợp giữa cái tâm và cái tài. Gốc của cái đẹp cũng như cái gốc của chữ nghĩa chính là “thiên lương”. Sứ mệnh của cái đẹp là phải làm cho cuộc sống này đẹp lên, nhân văn, nhân ái hơn. Cũng qua nhân vật Huấn Cao, nhà văn thiết tha gửi đến bạn đọc thông điệp : dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải sống đẹp, phải giữ gìn “thiên lương” cho lành vững. Mà sống đẹp không thể không gắn liền với cách ứng xử văn hóa, một thái độ tôn trọng tài năng và phẩm giá của con người.
- Cảnh cho chữ được tác giả gọi là cảnh tượng gì ? Vì sao lại gọi như thế ? Nêu ý nghĩa và vẻ đẹp của cảnh tượng này.
Cảnh cho chữ được tác giả gọi là cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Sở dĩ như vậy là vì : hoàn cảnh, địa điểm cho chữ “xưa nay chưa từng có” – việc cho chữ thường chỉ diễn ra ở những nơi như thư phòng, còn ở đây nó diễn ra trong một gian ngục thất tăm tối, hôi hám, bẩn thỉu, lại là nơi ngự trị của cái ác, cái xấu, của những thứ thù địch với cái đẹp ; tư thế của những người cho chữ, nhận chữ cũng “xưa nay chưa từng có” : kẻ có quyền hành thì không có “quyền uy”, “uy quyền” thuộc về Huấn Cao – kẻ đang bị tước đi mọi thứ quyền. Người nắm quyền sinh quyền sát thì khúm núm, sợ sệt trong khi kẻ tử tù thì ung dung đường bệ. Kẻ có chức năng giáo dục tội phạm thì đang được tội phạm “giáo dục”.
Cảnh tượng này đã được nhà văn miêu tả giống như một thước phim quay chậm mà chiều hướng vận động của nó là từ bóng tối đến ánh sáng – cảnh cho chữ bắt đầu được đặc tả bởi sự bao phủ của bóng tối nhà lao rồi dần dần nhen lên và rực rỡ ánh sáng; từ hôi hám, nhơ bẩn đến cái đẹp – cảnh Huấn Cao cho chữ hiện dần lên trên nền ánh sáng của bó đuốc tẩm dầu. Mỗi nét chữ hiện hình là cái đẹp nảy sinh.
Qua cảnh tượng này, nhà văn thể hiện niềm tin và sự khẳng định của mình về chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái đẹp đối với cái xấu, của cái thiện đối với cái ác. Vẻ đẹp của đoạn văn tả cảnh cho chữ chính là vẻ đẹp tỏa sáng của cái thiện, cái đẹp và nhân cách cao cả của con người.
- Nêu đặc sắc nghệ thuật của truyện Chữ người tử tù.
Chữ người tử tù là một tuyện ngắn. Mà trong nghệ thuật truyện ngắn, việc xây dựng tình huống truyện là rất quan trọng. Trong tác phẩm này, nhà văn đã xây dựng được một tình huống đặc biệt, đó là cuộc gặp gỡ khác thường của hai con người khác thường : viên quản ngục – kẻ đại diện cho bạo lực tăm tối nhưng lại rất khát khao ánh sáng của chữ nghĩa với Huấn Cao – người tử tù có tài viết chữ đẹp nổi tiếng. Lẽ ra đây phải là cuộc hội ngộ tương đắc của những kẻ biệt nhỡn liên tài, của hai tâm hồn nghệ sĩ yêu cái đẹp. Nhưng thật oái oăm, họ lại phải gặp nhau giữa chốn ngục tù và trong một tình thế éo le : cuộc chạm trán giữa một tên “đại nghịch”, cầm đầu cuộc nổi loạn đang đợi ngày ra pháp trường với kẻ đại diện cho trật tự xã hội đương thời. Tình huống truyện này chẳng những đã góp phần làm nổi rõ tính cách của Huấn Cao – một người tài hoa, hiên ngang, bất khuất trước cái ác, cái xấu nhưng mềm lòng trước cái thiện; tính cách của viên quản ngục – người biết “biệt nhỡn liên tài”, là một “thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”, mà còn ít nhiều làm bật sáng chủ đề tác phẩm : ngợi ca cái tài, cái đẹp, cái “thiên lương”.
Thành công của thiên truyện còn thể hiện ở nghệ thuật xây dựng nhân vật. Nguyễn Tuân đã sử dụng hiệu quả bút pháp lãng mạn, đặc biệt là thủ pháp tương phản để khắc họa và làm nổi bật chân dung, tính cách nhân vật.
Ngôn ngữ truyện giàu giá trị tạo hình. Nhịp điệu câu văn chậm rãi gợi liên tưởng đến một đoạn phim quay chậm. Từng hình ảnh, từng động tác hiện dần lên dưới ngòi bút “đậm chất điện ảnh” của nhà văn : “Trong không khí khói toả như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch… Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván”
Không khí cổ xưa “vang bóng một thời” cũng được “phục chế” thành công trong truyện qua hàng loạt các yếu tố, từ cảnh vật (cảnh nhà ngục, cảnh cho chữ), chi tiết, hình ảnh (góc án thư nơi làm việc của quản ngục), nhân vật (ngục quan, thơ lại, bọn lính ngục), đến từ ngữ (phiến trát, thầy bát, hèo hoa, đĩa dầu sở, thủ xướng, biệt nhỡn, hình bộ thượng thư…)
Đề tự luận
Kiểu đề 1: Cảm nhận/phân tích nhân vật
Kiểu đề 2: Phân tích một vấn đề trong tác phẩm
Gợi ý
*. Nguyên nhân dẫn đến cảnh cho chữ:
– Cảnh cho chữ chính là cảnh kết thúc của truyện. Nó được tạo ra bởi một tình huống đặc biệt: nhà giam tỉnh Sơn nhận được 6 tên tù án chém, Huấn Cao là người cầm đầu, có tài viết chữ đẹp nổi tiếng tỉnh Sơn. Viên quản ngục của nhà giam tỉnh Sơn là người xưa nay đã biết danh tiếng của Huấn Cao và luôn ao ước có được nét chữ của ông Huấn treo trong nhà.Quản ngục có được Huấn Cao trong tay nhưng lại đứng trước hai con đường: một là dùng quyền lực buộc Huấn Cao cho chữ, hai là đối xử “biệt nhỡn liên tài” với Huấn Cao, dùng tấm lòng để xúc động Huấn Cao, mong Huấn Cao cho chữ. Huấn Cao là người có cá tính nên viên quản ngục không thể chọn cách thứ nhất ông đã âm thầm, từ tốn dùng mọi cách để cảm hoá được Huấn Cao. Vì vậy, đêm trước ngày ra pháp trường, sở nguyện của quản ngục được chấp nhận. Cảnh cho chữ diễn ra khép lại nội dung truyện “Chữ người tử tù”. Nó được dựng nên bằng bút pháp nghệ thuật độc đáo, gửi gắm trong đó những ý tưởng nghệ thuật sâu xa.
*. ý nghĩa tư tưởng:
Miêu tả cảnh cho chữ:
– Cảnh cho chữ diễn ra trong buồng giam chật hẹp, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián, không khí ẩm thấp, tối tăm. Người cho chữ cũng trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt: “cổ đeo gông, chân vướng xiềng”, là một tử tù ngày mai phải vào kinh nhận án chém. Có sự đảo lộn ghê gớm trong vị thế của các nhân vật. Quản ngục – người xin chữ, đại diện cho pháp luật nhà nước, là người tự do về nhân thân, có quyền hành, đáng lẽ phải đàng hoàng, ung dung thì ở đây lại “khúm núm”. Người cho chữ – một tù nhân, mất quyền tự do thì lại uy nghi lồng lộng. Người sinh ra để dạy dỗ người khác nay lại bị người khác dạy dỗ.
=> Cảnh cho chữ được diễn ra trong đêm khuya lửa đóm cháy rực, khói toả nghi ngút. Cảnh cho chữ còn có sự hiện diện của thầy thơ lại, của chậu mực rất thơm, phiến lụa trắng tinh.
Ý nghĩa:
– Cảnh cho chữ cho thấy trong nhà tù không phải cái xấu, cái ác đang ngự trị mà cái đẹp, cái thiện đang làm chủ
– Cảnh cho chữ còn cho thấy nhà tù tối tăm đã bị xụp đổ không còn tội phạm, không còn quản ngục, không còn thầy thơ lại chỉ còn sự sáng tạo, cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ, sùng kính của những kẻ liên tài. Tất cả đều tắm đẫm trong ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, của thiên lương, của khí phách.
– Qua cảnh cho chữ, tác giả đề cao sự bất tử của người tù. Ngày mai không phải là ngày Huấn Cao chết mà là ngày ông đi vào cõi bất tử. Những nét chữ nói lên hoài bão tung hoành của một đời người, di huấn thiêng liêng của ông được quản ngục lắng nghe, ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ vẫn toả ánh hào quang rực rỡ. Huấn Cao trong cảnh cho chữ nơi tù ngục là bức tượng đài cao nghiêm về con người tài hoa, khí phách.
– Cảnh cho chữ thể hiện lòng mến mộ của Nguyễn Tuân với người tài, thể hiện quan niệm của người nghệ sĩ về cái đẹp. Cái đẹp có thể được tạo nên từ nơi xấu xa, tàn ác nhưng không lẫn với cái xấu xa và tàn ác. Tác giả còn thể hiện niềm tin cao đẹp vào chân lý, chân lý luôn chiến thắng.
Nghệ thuật của đoạn văn tả cảnh cho chữ:
– Nghệ thuật tạo khung cảnh:
Nhà văn đã tạo ra một khung cảnh trang nghiêm, cổ kính, xúc động, thiêng liêng và khác thường, phù hợp với việc cho chữ của ngừơi tử tù. Nó diễn ra trong đêm khuya, phòng giam thì chật hẹp, đuốc rừng rực như đám cháy nhà, khói toả nghi ngút, ba người dụi mắt lia lịa, âm thanh thì chỉ có tiếng mõ vọng canh.
– Nghệ thuật tạo hình:
Nguyễn Tuân miêu tả một cách chi tiết xúc động như khắc hoạ, như chạm trổ làm cho cảnh cho chữ giữa nhà giam hiện lên rõ mồn một. Người đọc được chứng kiến từng cử chỉ, nét mặt, thái độ của mỗi người. Trọng tâm nhất là hình ảnh ba cái đầu chụm vào nhau, tấm lụa bạch trắng tinh còn nguyên vẹn lần hồ, mùi hương từ chậu mực toả ra thơm ngát…
– Nghệ thuật tương phản:
Tác giả đã đối lập giữa một bên là tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ với một bên là phòng giam chật hẹp, đối lập giữa bóng tối và ánh sáng, đối lập giữa một bên là người tù và một bên là đại diện cho triều đình. Đối lập giữa cái tinh khiết trong sạch với cái tàn ác, xấu xa…
=> Như vậy, trong cảnh cho chữ, nhà văn đã tạo ra sự tương phản nhuần nhuyễn, gay gắt giữa cái đẹp và sự tầm thường, đê tiện
– Lối kể chuyện:
+ Đoạn văn thành công ở lối viết truyện vừa cổ kính, vừa hiện đại. Cổ kính từ tên truyện đến đề tài cốt truyện, từ cách đặt tên các nhân vật đến cách dùng từ
+ Trong đoạn văn tả cảnh vẫn tên người, vẫn cách gọi nhân vật, vẫn không khí trang nghiêm ấy nhưng Nguyễn Tuân còn đưa thêm nhiều từ Hán Việt để chỉ hành động, cử chỉ mà thời xưa mới có.
– Nghệ thuật miêu tả tâm lý:
Cái tài tình của đoạn văn còn thể hiện ở nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật. Miêu tả cảnh cho chữ nhưng người đọc có thể thấy được suy nghĩ, thái độ tâm hồn của từng con người.
- Kiểu đề 3 : so sánh
Cảm nhận của anh (chị) về nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù và nhân vật ông lái đò trong tác phẩm Người lái đò sông Đà.
– Huấn Cao, tài viết chữ.
– Ông lái đò, tay lái ra hoa
– Trước Cách mạng : con người đặc tuyển.
– Sau Cách mạng : mở rộng tới những người dân lao động.
– Huấn Cao vừa là nhà nho tài tử vừa là trang anh hùng dũng liệt, khí phách ngang tàng.
– Ông lái đò vừa là người lao động bình dị vừa là vị tướng anh hùng trên chiến trường sông nước.
III. NHỮNG ĐỀ TỰ GIẢI
Đề 1: Nêu thành công “gần đạt đến sự hoàn mỹ”( chữ dùng của Vũ Ngọc Phan) trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân.
Đề 2: Phân tích tình huống truyện “Chữ người tử tù”.
Đề 3: Qua truyện “Chữ người tử tù”chỉ ra những độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
Đề 4: Hãy làm sáng tỏ: “Chữ người tù” thể hiện một quan điểm thẩm mỹ độc đáo của tác giả.
Đề 5: So sánh vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao và vẻ đẹp của nhân vật Viên quản ngục trong tác phẩm “ Chữ người tử tù”
Đề 6: Vẻ đẹp lãng mạn của nhân vật Huấn Cao trong “ Chữ người tử tù”
CHUYÊN ĐỀ VĂN HỌC: DẠY TRUYỆN NGẮN CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ CỦA NGUYỄN TUÂN
Người thực hiện: GV Văn học – Th.S Tạ Quốc Cường