ĐẤT NƯỚC
- Nguyễn Khoa Điềm -

* KHÁI QUÁT
1. Tác giả:
Là một trong những nhà tơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Thơ ông giàu chất suy tư, lắng đọng, xúc cảm, thường thể hiện tâm tư, ý thức của một công dân yêu nước với vai trò và trách nhiệm của thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc chiến đấu chung của dân tộc, thể hiện những nhận thức sâu sắc về nhân dân, đất nước qua trải nghiệm của chính mình.
2. Tác phẩm :
2.1. Xuất xứ, giá trị, hoàn cảnh sáng tác:
- Đoạn trích thuộc phần đầu chương V có tên “Đất nước” của trường ca “Mặt trời khát vọng” được Nguyễn Khoa Điềm viết ở chiến khu Trị - Thiên 1971, in lần đầu năm 1974.
- Đây là giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cũng là giai đoạn ác liệt nhất đòi hỏi sức mạnh hợp lực trong đó lực lượng chiếm vai trò là thế hệ trẻ.
- Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị vùng bị tạm chiếm miền Nam, mở rộng ra là sự tự ý thức của tuổi trẻ Việt Nam hướng về nhân dân, đất nước, ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
2.2. Tư tưởng chủ đạo:
Tư tưởng chủ đạo của đoạn thơ là Đất nước của nhân dân. Tư tưởng ấy được thể hiện ở 2 phương diện:
- Đất nước hòa quyện gắn bó sâu sắc trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân. Đất nước làm nên cuộc sống nhân dân.
- Nhân dân với những đóng góp hy sinh lớn lao trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm qua đã làm nên “đất nước muôn đời”

 

                                                       ĐỀ 1

Bình giảng đoạn thơ đầu đoạn trích “Đất nước” trong trường ca “Mặt trời khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm (từ đầu -> “muôn đời”)
I/ Mở bài:
- Tác giả, tác phẩm
- Đoạn thơ được bình giảng thuộc phần đầu của đoạn trích góp phần lý giải một trong những bình diện đầu tiên của tư tưởng “Đất nước của nhân dân”, đó là quan niệm: Đất nước hòa quyện gắn bó sâu sắc trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân, đất nước làm nên cuộc sống nhân dân, mỗi con người luôn phải có trách nhiệm để xây dựng, bảo vệ, làm nên “đất nước muôn đời”
II/ Thân bài:
1. Những quan hệ sâu sắc, cảm nhận đầu tiên về đất nước trong mối quan hệ gắn bó với nhân dân.
1.1. Đất nước là gì?
Đất nước được hiểu là nơi cư trú của một cộng đồng dân tộc, có biên giới lãnh thổ riêng, có sự gắn kết với nhau về văn hóa, phong tục tập quán, có tiếng nói ngôn ngữ riêng, có truyền thống lịch sử văn hiến lâu đời.
1.2. Đất nước trong thơ văn?
Tùy theo từng thời kỳ lịch sử, đất nước được định nghĩa theo những quan niệm khác nhau, đó là “Nam đế cư” như trong bài thơ thần của thế kỷ XI, đó là một quốc gia “nền văn hiến đã lâu, núi sông bờ cõi đã chia, phong tục bắc nam cũng khác…” như trong Bình Ngô đại cáo của thế kỷ XV. Văn học hiện đại cũng thường tạo ra một khoảng cách sử thi để chiêm ngưỡng đất nước thông qua những hình ảnh kỳ vỹ, tráng lệ, mang đậm tính biểu tượng như trong câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm:
“Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”
hoặc hiện ra trong một hình ảnh thơ mộng:
“Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân” (Lê Anh Xuân)
1.3. Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm:
- Trong đoạn đầu, với giọng điệu suy tư hướng tới trả lời 2 câu: Đất nước có từ bao giờ? Ở đâu? Nguyễn Khoa Điềm đã đưa đến một cách cảm nhận vừa mới mẻ, vừa xúc động thấm thía về đất nước trong mối quan hệ với cuộc sống nhân dân, trong đó những khái niệm trừu tượng, những tiêu chí thiêng liêng định hình nên đất nước đã được nhà thơ thể hiện qua những hình ảnh cụ thể, bình dị, quen thuộc và gợi cảm.
- Câu thơ mở đầu đưa đến một cảm nhận ấm áp và tự hào về sự hình thành của đất nước:
“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”
“Ta” là một khái niệm mơ hồ, không xác định. Đó có thể là bất cứ người Việt Nam nào, là “anh và em” ngày hôm nay, là con cháu sau này, là cha ông ngàn năm trước, cứ mỗi người Việt Nam sinh ra là ngay lập tức được bao bọc và nâng niu, nuôi dưỡng và che chở trong chiếc nôi lớn lao, ấm áp, thân yêu, đó là đất nước. Đất nước luôn có từ trước đó, như từ thuở khai thiên lập địa, như tồn tại cùng dòng thời gian vô thủy vô chung.
- Với việc điệp lại liên tiếp từ ghép “đất nước” trong cả đoạn thơ, tác giả đã đưa đến cảm giác đất nước không ở đâu xa lạ, đất nước luôn gắn bó thân thiết với cuộc sống hàng ngày. Đất nước có mặt ở mọi nơi, hòa nhập trong mọi hình hài dù là con người với ông bà, cha mẹ, với anh và em, dù là cảnh vật với sông núi biển khơi. đất nước có thể hữu hình - “cái kèo, cái cột, …hạt gạo, …miếng trầu” hoặc vô hình sau những nghĩa tình của gừng cay muối mặn.
- Trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm, đất nước không hiện ra trong sự nối tiếp của các thời đại, không được ghi khắc trong các sự kiện lịch sử lớn lao, không được thể hiện trong các khái niệm xa xôi trừu tượng mà hiện ra trong các chi tiết đời thường gần gũi của cuộc sống nhân dân, trong sự xưa cũ vô cùng của thời gian, năm tháng. Mỗi câu thơ đều chứa đựng một ý, một tứ nào đó của ca dao, thành ngữ, tục ngữ, một hình ảnh quen thuộc nào đó của truyền thuyết, thần thoại… Những chất liệu của văn hóa dân gian đã làm hiện ra phong tục, thói quen sinh hoạt như “miếng trầu bây giờ bà ăn”, hoặc “tóc mẹ thì bới sau đầu”, những tập quán cổ xưa của nền văn minh sông Hồng trong những ngôi nhà tranh với “cái kèo cái cột thành tên”, trong “hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng”, truyền thống đánh giặc trong hình ảnh cây tre làng Gióng, văn hóa ứng xử trong đạo lý nghĩa tình của mẹ cha “gừng cay muối mặn”. Tất cả những hình ảnh bình dị ấy đều đưa người đọc liên tưởng tới một phương diện nào đó của đất nước, đều là sự thể hiện sâu đậm, lâu bền nhất với những phong tục tập quán, truyền thống văn hóa, lịch sử của đất nước, khiến cho các vĩnh hằng của đất nước luôn tồn tại trong cuộc sống hàng ngày của mỗi con người.
Qua những cảm nhận có vẻ như tản mạn, tùy hứng, qua những hình ảnh gợi nhắc tới tục ngữ, ca dao, thần thoại, cổ tích… nhà thơ đã đưa người đọc đến một nhận thức giản dị mà sâu sắc, thấm thía: đất nước có một lịch sử lâu đời, đất nước không hề xa lạ hay trừu tượng, đất nước là những gì gần gũi thân yêu vô cùng, luôn hiện hữu trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân, đất nước làm nên hình hài, vóc dáng, đất nước làm nên tâm hồn, cốt cách, lối sống, lối nghĩ của mỗi con người, đất nước làm nên cuộc sống nhân dân.
2. Đất nước là gì?
Bên cạnh những cảm nhận sâu sắc về đất nước trong mối quan hệ gắn bó với cuộc sống nhân dân, nhà thơ còn đặt đất nước trong cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp nhiều chiều, nhiều phương diện để có thể trả lời thấu đáo câu hỏi: Đất nước là gì?
Trong nhiều ngôn ngữ khác, đất nước có thể được cấu tạo bằng những từ mang nghĩa gốc là đất mẹ, là nơi sinh, là quê hương, là nước nhà (motherland, homeland…). Trong tiếng Việt, đất nước gồm hai thành tố là “đất” và “nước”. Nguyễn Khoa Điềm đã kết hợp giữa tư duy nghệ thuật sâu sắc, tinh tế với các chiết tự tài hoa hai thành tố riêng biệt của từ ghép “đất nước”, từ đó khám phá ra những nét nghĩa mới mẻ, bất ngờ, đưa đến những suy tư sâu sắc về đất nước:
2.1. Trước hết, đất nước được đặt trong chiều dài miên viễn của “thời gian đằng đẵng”
- Sau lời khẳng định tự hào và ấm áp “khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”, cảm giác về lịch sử lâu đời của đất nước được tô đậm hơn trong sự khám phá:
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể. “Ngày xửa ngày xưa” là câu mở đầu quen thuộc trong truyện cổ tích, thời gian cổ tích là thời gian xa xăm vô cùng trong tâm thức con người. Vậy mà trong thời gian ấy, đất nước của chúng ta đã hiện hữu, tưởng như “Từ có vũ trụ - đã có giang san” (Trương Hán Siêu)
Đất nước đã có từ thuở hồng hoang trong những câu chuyện “ngày xửa ngày xưa” của mẹ, từ sự tích trăm trứng, sử thi “Đẻ đất đẻ nước”, truyền thuyết về An Dương Vương hay Sơn tinh, Thủy tinh… Qua những cách lý giải hồn nhiên của dân gian về sự hình thành và phát triển đất nước, về quá trình dựng nước và giữ nước, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện niềm tự hào sâu sắc về truyền thống cha ông, về bề dày lịch sử của một đất nước bốn nghìn năm…
- Sau đó, những cụm từ liên tiếp lặp lại từ đầu đến cuối đoạn thơ: “đất nước đã có rồi… đất nước bắt đầu… đất nước lớn lên… đất nước có từ ngày đó…” đã gợi ra chiều dài thăm thẳm của lịch sử lâu đời của đất nước. “Ngày đó” là một khái niệm mơ hồ về thời gian. Tính chất mơ hồ không xác định khiến sự ra đời của đất nước càng trở nên xa xăm, cũng là “ngày xửa ngày xưa” khi “dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”, khi “tóc mẹ thì bới sau đầu”, khi “cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”… Câu thơ đã giúp người đọc nhận ra đất nước bắt đầu, đất nước lớn lên, đất nước hình thành và phát triển chính từ những phong tục tập quán, những truyền thống văn hóa, lịch sử lâu đời. Nếu sự nối tiếp của các triều đại mới chỉ cho thấy bề mặt của lịch sử đất nước thì những phong tục tập quán mới thực sự chỉ ra chiều sâu văn hóa lịch sử, nền tảng vững chắc của một đất nước.
- Đất nước đã hiện ra trong những huyền thoại bay bổng và đẹp đẽ, về thời gian buổi đầu lập nước:
“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rổng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Đây là một huyền thoại đầy ý nghĩa đem lại niềm tự hào về lịch sử xa xăm của ngày lập nước, niềm kiêu hãnh về dòng dõi con Rồng cháu Tiên, niềm thương mến về nghĩa tình “đồng bào” thiêng liêng, ruột thịt.
- Qua những câu thơ gợi nhớ truyền thuyết về vua Hùng Vương và ngày giỗ Tổ, câu chuyện về chú bé Làng Gióng cầm gậy tre đánh giặc, về lớp lớp những thế hệ người Việt Nam với “những ai đã khuất” trong quá khứ, “những ai bây giờ” trong hiện tại, “con ta lớn lên” trong tương lai:
“Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau”
Nguyễn Khoa Điềm đã làm hiện lên trong suy tưởng của người đọc một chiều dài thăm thẳm trong thời gian lịch sử của đất nước. Qua đó, đất nước được cảm nhận như một sự thống nhất hài hòa các phương diện văn hóa - lịch sử, đạo lý, vừa thiêng liêng cao quý, vừa gần gũi gắn bó với cuộc sống nhân dân. Những giá trị tinh thần bền vững như lòng yêu nước, căm thù giặc, ý chí kiên cường dũng cảm đánh giặc, sự thủy chung tình nghĩa…, những giá trị vật chất quý giá của đất nước: ngôi nhà, ruộng vườn, hạt lúa… được hình thành, nuôi dưỡng, bảo vệ, giữ gìn qua các thế hệ đã tạo nên sự gắn kết giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Mạch thơ đưa đất nước trôi chảy trong “dòng thời gian đằng đẵng” với “đất nước bắt đầu… đất nước lớn lên…” và nếu nhìn từ phương diện thời gian, có thể thấy đất nước hình thành và phát triển qua cuộc chạy tiếp sức lớn lao, vĩ đại, vĩnh hằng của các thế hệ người Việt Nam trong chiều dài của lịch sử dựng nước và giữ nước.
2.2. Không tách rời khỏi thời gian, đất nước đồng thời được đặt trong chiều rộng của không gian mênh mông:
- Không gian nguồn cội đầu tiên thuở lập nước là không gian nơi “Chim về - Rồng ở”, là nơi “Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”. Câu chuyện về bố Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ sinh ra trăm con, 50 theo cha xuống biển, 50 theo mẹ lên non, khai phá dựng xây lập nước… khiến cho núi sông không đơn thuần chỉ là những cảnh sắc thiên nhiên mà trở nên thiêng liêng, gần gũi trong tâm thức người Việt, trở thành chứng tích của tổ tiên xa xăm, khiến cho dân Việt:
“Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
- Đất nước hiện ra trong những không gian lớn lao, kỳ vĩ với núi rừng sông biển, nơi “con chim Phượng hoàng bay về hòn núi bạc”, nơi “con cá ngư ông mong nước biển khơi”. Đất nước cũng là nơi “dân mình đoàn tụ”, là không gian sinh tồn của cả cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ với “những ai đã khuất - những ai bây giờ”. Đất nước còn hiện hữu gần gũi thân yêu trong những mái nhà tranh, trong “cái kèo cái cột thành tên”.
- Trong đoạn thơ đầu, quấn quýt đan xen với đất nước là danh từ chỉ những người thân yêu, ruột thịt trong một gia đình, điều đó khiến đất nước trở thành một không gian ấm áp bình yên với ông bà, cha mẹ, cháu con… và đồng bào. Trong cảm nhận của tuổi trẻ, đất nước là một cõi thơ mộng ngọt ngào với những không gian tuyệt diệu dành cho tình yêu đôi lứa:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Mái trường nơi anh học, dòng sông nơi em tắm, giếng nước gốc đa “nơi ta hò hẹn”… những không gian chứa đựng bao tình thương nỗi nhớ ấy đều là sự hiện hữu cụ thể nhất, gần gũi nhất của những giá trị tinh thần, những đạo lý làm nên đất nước. Những nghĩa tình không phải chỉ của anh và em trong hiện tại mà còn của bao thế hệ đã qua trong quá khứ, bao thế hệ sắp tới trong tương lai.
- Đất nước còn hiện ra trong những không gian thân thuộc, thiêng liêng mà hào hùng của những cuộc chiến đấu chống giặc “khi dân mình biết trồng tre”, khi vũ khí của những người dân nghèo dũng cảm phải lấy từ những rặng tầm vông, từ những khóm tre “thân gầy guộc, lá mong manh” trong không gian của làng quê. Những rặng tre, những ao đầm làng Gióng, hòn đá vọng phu đều là dấu tích đau thương mà oanh liệt để lại trên thân mình đất nước.
- Đất nước cũng là không gian lao động với những cánh đồng mênh mông của nền văn minh lúa nước, nơi bao thế hệ người Việt nối tiếp nhau “một nắng hai sương xay giã giần sàng” để làm ra hạt gạo.
Kết: Qua sự dẫn dắt của nhà thơ, người đọc nhận ra một điều giản dị mà sâu sắc: nhìn ở bình diện không gian, đất nước là nơi những thế hệ người Việt Nam “sinh ra, lớn lên, yêu nhau và sinh con đẻ cái”, lao động dựng xây, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thân yêu. 
2.3. Chiều sâu của văn hóa:
- Trên chiều rộng của không gian địa lý, chiều dài của thời gian lịch sử, đất nước được cảm nhận như sự thống nhất của các phương diện văn hóa, phong tục, đạo lý…
- Qua việc khai thác ý nghĩa các thành tố ĐẤT và NƯỚC cũng như từ ghép “đất nước” trong mối quan hệ giữa thời gian và không gian, giữa lịch sử và địa lý, giữa quá khứ - hiện tại và tương lai, giữa cá nhân và cộng đồng; bằng những chất liệu của văn hóa dân gian từ ca dao, tục ngữ, thành ngữ đến truyền thuyết, cổ tích, thần thoại, đến cả những thói quen trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, Nguyễn Khoa Điềm đã làm hiện lên hình ảnh đất nước với nghìn năm văn hiến, với truyền thống yêu nước và ý chí bất khuất kiên cường đánh giặc ngoại xâm khi “trồng tre mà đánh giặc”, với truyền thống lao động cần cù, chăm chỉ khi làm ra hạt gạo phải “một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”, với truyền thống đạo lý của những con người nhân hậu, thủy chung, tình nghĩa, luôn dặn nhau: “Tay bưng chén muối đĩa gừng, Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”, với những thuần phong mỹ tục đẹp đẽ từ “miếng trầu là đầu câu chuyện”, “miếng trầu nên dâu nhà người” đến những lời nhắc thiêng liêng: “Dù ai đi ngược về xuôi, nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba”.
Cần cù trong lao động dựng nước, dũng cảm kiên cường trong những cuộc đấu tranh giữ nước, nhân hậu nghĩa tình trong ứng xử của cuộc sống hàng ngày, đó là chiều sâu văn hóa tạo nên nền tảng vững chắc cho một đất nước.
3. Đất nước ở đâu? (Đất nước trong mỗi con người)
- Trong đoạn 1, đất nước xuất hiện với những gì gần gũi, bình dị nhất trong cuộc sống hàng ngày, rồi mở rộng ra trong nhiều chiều của thời gian và không gian, của lịch sử và địa lý…, cuối cùng nhà thơ đưa ra những cảm nhận về đất nước trở lại với những phát hiện về sự hiện hữu của đất nước trong mỗi con người, để từ đó nhắc nhở trách nhiệm của mỗi con người đối với đất nước.
- Từ những trân trọng và trách nhiệm khi gánh vác, những tha thiết khi dặn dò, hai câu thơ đã chỉ ra một cách cụ thể mà hàm súc về sứ mệnh mỗi cá nhân đối với cộng đồng trong dòng thời gian “đằng đẵng” của lịch sử dựng nước và giữ nước. Tuy nhiên, mỗi con người không chỉ có trách nhiệm với quá khứ khi gánh vác, với tương lai khi dặn dò, điều quan trọng nhất để đất nước vận động và phát triển là từng ngày từng giờ trong hiện tại phải biết gắn bó và san sẻ để làm nên “đất nước muôn đời” - đó là trách nhiệm với đất nước, cũng là trách nhiệm với chính bản thân mình.
- Hình hài đất nước, sự phát triển phồn thịnh của đất nước trong tương lai, vị trí tầm vóc của đất nước trên trường quốc tế đã được tác giả thể hiện trong một viễn cảnh đẹp đẽ và lãng mạn:
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước ra đi
Đến những tháng ngày mơ mộng”
Đất nước nhọc nhằn, nghèo khó, đất nước đau thương vất vả trong những cuộc chiến tranh hôm qua, đất nước ấy sẽ được xây dựng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” trong ngày mai khi “con ta lớn lên”, mang trong mình những phẩm chất đẹp đẽ của bao thế hệ người Việt trong lịch sử dựng nước và giữ nước, đưa đất nước đến những bến bờ xa hưng thịnh, phồn vinh, sánh vai với các cường quốc năm châu.
III/ Kết bài:
- Đoạn trích đã thể hiện những nét đặc sắc trong phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm, với sự kết hợp giữa chính luận với trữ tình, suy tưởng và cảm xúc, nhờ đó đoạn thơ đã đưa đến những nhận thức: đất nước không ở đâu xa, đất nước là những gì gần gũi thân yêu, bình dị trong cuộc sống hàng ngày, đất nước ở trong ta với tâm hồn, cốt cách, đất nước ở ngoài ta với những nuôi dưỡng, dạy dỗ, chở che; đất nước hình thành và phát triển qua cuộc chạy tiếp sức vĩ đại, vĩnh hằng của các thế hệ người Việt Nam trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Đất nước cũng là nơi những con người Việt Nam sinh ra, lớn lên, “yêu nhau và sinh con đẻ cái”, lao động dựng xây và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thân yêu. Những tư tưởng ấy được thể hiện trong những vần thơ thấm đượm cảm xúc, trong những suy tưởng sâu xa, mới mẻ…
- Đoạn thơ đã cảm nhận và phát hiện về đất nước trong cái nhìn tổng hợp và toàn vẹn, mang đậm tư tưởng xây dựng, sử dụng phong phú các yếu tố của văn hóa, văn học dân gian một cách sáng tạo, hòa nhập trong các diễn đạt và tư duy hiện đại, mang đến cho tác phẩm màu sắc thẩm mỹ vừa quen, vừa mới mẻ, phù hợp với tư tưởng cốt lõi của tác phẩm: “đất nước của nhân dân”

                                                                                   ĐỀ 2

                                    Đất Nước qua dòng suy tưởng của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm

 

Nguyễn Khoa Điềm khẳng định chân lí bằng một trực cảm thiên tài để lí giải một cách cụ thể sinh động về sự khởi nguyên và phát triển của đất nước qua hình tượng miếng trầu, cây tre. Những hình tượng bình thường quen thuộc trong đời sống của nhân dân Việt Nam, nhưng mãi cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm phát biểu, cái chân lí ngỡ là hiển nhiên đấy, người đọc lắng lại một khoảnh khắc, sau đó ngớ ra bao điều thú vị…

Trong những ngày tham gia kháng chiến chống Mỹ ở chiến trường Trị Thiên, Nguyễn Khoa Điềm đã có những xúc cảm, suy tư nồng thắm sâu sắc về đất nước về nhân dân trong quá trình dựng nước và giữ nước. Từ đó, nhà thơ đi đến sự nhận thức đúng đắn về vai trò trách nhiệm của thế hệ thanh niên trí thức – những người chủ chân chính của đất nước, phải tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến của nhân dân để giải phóng dân tộc, đưa đất nước đi xa hơn đến những tháng ngày mơ mộng. Trường ca Mặt đường khát vọng hình thành trong bối cảnh ấy, và có thể xem chương Đất Nước là nơi dồn nén cảm xúc và kết tinh những suy tư có tính chân lý của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước và Nhân Dân, được chuyển tải qua những lời nghệ thuật dung dị, lại có khả năng truyền cảm sâu sắc đến bao thế hệ độc giả.

Mở đầu cho dòng suy tưởng, Nguyễn Khoa Điềm nhận thức về sự tồn tại lâu dài của đất nước trong suốt “thời gian đằng đẵng” bốn ngàn năm văn hiến. Thi nhân khẳng định:

Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi..

Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa“… mẹ thường hay kể.

Âm hưởng của lời thơ lắng đọng như giọng kể chuyện tâm tình thủ thỉ giữa những kẻ thân thương, gợi ra ở người nghe dòng liên tưởng trôi về một thời quá khứ xa xăm, trong ấy trầm tích bao huyền sử tự hào về cuộc sống chiến đấu của cha ông. Nhà thơ đã sử dụng thi pháp tuyệt vời ở câu thơ bỏ ngỏ. Sau trạng ngữ chỉ thời gian “Ngày xửa ngày xưa”…, lời kể của mẹ được chuyển sang cho người đọc tự liên tưởng hình dung về bao hình tượng đẹp một thời làm xôn xao tuổi mộng vàng như Thánh Gióng, Trần Quốc Toản, Mai An Tiêm… Cả một nền văn hoá, văn học dân gian với bao thần thoại, truyền thuyết phong phú làm sao có thể gói trọn trong mấy vần thơ. Thi nhân như trao cho người đọc chiếc chìa khoá để tự mình khám phá cái kho tàng văn hoá phong phú tổ tiên trao lại. Lần về mảnh vườn cổ tích ấy, những ai có lòng chắc chắn sẽ tự mình chắt chiu được những giọt mật mà bồi dưỡng tâm hồn thiện chân, tìm đến một lẽ sống đẹp.Truy tìm về cội nguồn Đất Nước, khó ai có thể xác định minh bạch cái ngày tháng khởi thuỷ của nó, cho dù là nhà khảo cổ hay sử gia. Nguyễn Khoa Điềm lại xác định cái buổi ban đầu ấy qua một nét sống giản dị nhưng đậm đà của những người mẹ, người bà Việt Nam:

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi mình biết trồng tre mà đánh giặc

Không ai lấy tiêu chuẩn đo lường của nhà khoa học để bắt bẻ thi nhân. Nguyễn Khoa Điềm khẳng định chân lí bằng một trực cảm thiên tài để lí giải một cách cụ thể sinh động về sự khởi nguyên và phát triển của đất nước qua hình tượng miếng trầu, cây tre. Những hình tượng bình thường quen thuộc trong đời sống của nhân dân Việt Nam, nhưng mãi cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm phát biểu, cái chân lí ngỡ là hiển nhiên đấy, người đọc lắng lại một khoảnh khắc, sau đó ngớ ra bao điều thú vị. Bởi lẽ, thẩm thấu vào các tế bào mỏng manh ấy, là những mối quan hệ tình nghĩa truyền thống đẹp của con người Việt Nam.Trong tục cúng lễ, miếng trầu quả cau là biểu tượng cho tấm lòng thành của con cháu gửi đến hồn thiêng những bậc đã khuất, là nhịp cầu giao cảm với tiền nhân. Miếng trầu gợi ra huyền sử tình yêu, nói lên mối quan hệ vợ chồng chung thuỷ, nghĩa anh em Tân – Lang trọn vẹn. Và có lẽ từ đó, miếng trầu trở thành vật biểu trưng cho tình yêu và hôn nhân. Miếng trầu giúp dẫn mối tìm nhau, để cho con người phải lứa nên duyên, là nhân tố tạo nên bao đôi uyên ương chắp cánh chung cành. Để rồi khi họ về già, thong thả nhai miếng trầu, nhớ buổi thanh xuân tình nồng nghĩa đượm, mà đột nhiên nở nụ cười mãn nguyện chuyện tình xưa.

Nhà thơ lại liên tưởng song hành về sự lớn mạnh của đất nước từ buổi “dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”. Đất nước Việt có điều kiện thổ nhưỡng phù hợp tạo điều kiện cho cây tre sinh sôi phát triển khắp mọi miền của Tổ Quốc, đem lại một màu xanh bát ngát cho quê hương. Nguyễn Duy cũng từng trăn trở về những phẩm chất kì lạ của cây tre Việt :

Tre xanh xanh tự bao giờ?

Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh

Thân gầy guộc lá mong manh

Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi?

Ở đâu tre cũng xanh tươi

Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu?

Cây tre hiền hậu trên mỗi làng quê. Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất đôi khi ngỡ là đối lập trong cốt cách con người Việt Nam: thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình như cây tre mềm mại để hoá thành những vật dụng xinh xắn trong cuộc sống con người: nhỏ nhắn như cây tăm, đôi đũa; êm ái như chiếc nôi ru ta lớn lên vào đời; yên ổn vững chắc như “cái kèo cái cột thành tên”, làm nên ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống như Nguyễn Duy so sánh:

Rễ siêng không ngại đất nghèo

Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù.

Đến khi cả dân tộc lên đường ra trận, quyết giành lại độc lập tự do, thì tre cũng đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với dân tộc Việt , thậm chí “một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ “, bởi “nòi tre đâu chịu mọc cong, chưa lên đã nhọn như chông lạ thường”.

Từ những giá trị vật chất bình dị thân quen, Nguyễn Khoa Điềm gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Đó không ai khác là những người mẹ, người cha một đời kính trọng thuỷ chung, “thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Tình cảm chân thành ấy không phải là lớp son phấn với “sắc màu lộng lẫy, sáo ngữ ồn ào”, mà là những nét duyên như búi tóc mẹ bới sau đầu gọn gàng ý nhị, đủ để làm cho con tim xao xuyến khi gần nhau, và khi xa thì không bao giờ nguôi ngoai nhung nhớ, để rồi họ bật lên những câu ca dao nghe như muối xát tâm can:

Thiếp nhớ chàng tấm phên hư nuộc lạt đứt

Chàng nhớ thiếp khi đắng nước nghẹn cơm

Ba trăng là mấy mươi hôm

Mai nam vắng trước chiều nồm quạnh sau.

Nguyễn Khoa Điềm lại có một cách nhìn thấu triệt theo thời gian hao phí lao động để kết tinh một hạt gạo trắng trong. Nó phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng.Thắm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân. Nhiều người chỉ biết hưởng thụ hững hờ mà quên đi lời dạy “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, nên Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo nhắc nhở chúng ta nhai hạt cơm dẻo nên nhớ đến công lao của người làm ra nó, để không làm họ buồn lòng phải cất lời nhắc nhở:

Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.

Nguyễn Khoa Điềm thật tài tình, khi ông cụ thể hoá khái niệm đất nước trừu tượng lớn lao cả về chiều “thời gian đằng đẵng”, lẫn “không gian mênh mông” vào trong những hình ảnh nhỏ bé như hạt gạo, nhưng lấp lánh bao tầng ý nghĩa sâu sắc, có giá trị biểu trưng những nét bản chất và tinh hoa của dân tộc, của Đất Nước Việt Nam. Đề cập đến hạt gạo là nói đến nền kinh tế nông nghiệp đặc trưng, được quy định bởi điều kiện thổ nhưỡng thuận lợi của nước Việt. Nhân dân lao động gắn mình trong môi trường đất đai từ đời này qua đời khác, sẽ định hình nên những nét cốt cách của con người Việt . Họ yêu quý đất đến mức xem “Tấc đất tấc vàng”. Và vì vậy, họ sẵn sàng hiến thân vì non sông đất nước như Chế Lan Viên từng cảm xúc:

Ôi Tổ Quốc ta yêu như máu thịt

Như mẹ cha ta như vợ như chồng

Ôi Tổ Quốc nếu cần ta chết

Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông

( Sao chiến thắng )

Tính triết lý trong dòng suy tưởng của Nguyễn Khoa Điềm vừa sâu sắc vừa đầy sức thuyết phục. Chỉ vài dòng thơ ngắn và tinh tế, thi nhân đã đi đến một kết luận có tính khẳng định “Đất Nước có từ ngày đó …” và do nhân dân lao động tạo dựng nên, để cho chúng ta hôm nay được thụ hưởng hạnh phúc một cách cụ thể thiết thực, chứ không hề là một tình cảm thuần tuý mơ hồ đã thuộc về quá khứ. Nguyễn Khoa Điềm giải thích một cách đơn giản:

Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất nước là nơi ta hò hẹn

Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.

Nhà thơ nhắc đến ngôi trường cái bến, một toạ độ lưu dấu kỷ niệm tình yêu. Các địa danh ngỡ là rời rạc riêng tư, nhưng thực chất đó là linh hồn của Đất Nước, là dấu ấn tình cảm sâu sắc của con người Việt . Ngôi trường là nơi cung cấp hành trang tri thức cho mỗi chúng ta tự tin để làm chủ cuộc sống. Dòng sông không chỉ mang phù sa màu mỡ làm xanh những cánh đồng mà là nguồn nước tắm mát đời ta, gắn bó đến mức như Hoàng Cầm mang theo hình ảnh con sông Đuống quê hương trong hồn với dáng nghiêng nghiêng dài theo cuộc kháng chiến. Và khi sông Đuống tạm thời bị quân giặc chiếm đóng, ông đau đớn bàng hoàng đến mức thốt lên lời than nhức nhối: “Sao xót xa như rụng bàn tay”.

Nêu một địa chỉ hẹn hò mà thành Đất Nước nghe có vẻ mơ hồ, nhưng nó là minh chứng của tình yêu, là khởi phát của một gia đình, và có muôn nhà mới góp thành đất nước. Đó là mối quan hệ biện chứng giữa gia đình và Tổ Quốc, là sự thống nhất liền mạch mỗi tấc đất của quê hương, tồn tại trong “thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông”.Trong ấy, bao thế hệ nối tiếp nhau quản lí đất nước từ dãy Trường Sơn hùng vĩ – “Nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” cho đến biển bờ Thái Bình Dương vỗ sóng mênh mang – nơi “Con cá ngư ông móng nước biển khơi”. Nguyễn Khoa Điềm với một tình cảm tự hào, ông gợi lại huyền sử lung linh về dòng dõi con Rồng cháu Tiên của dân Lạc Việt gợi ra cái chất keo đồng bào huyết mạch – yếu tố tạo nên tình đoàn kết “dân mình đoàn tụ” bên nhau đứng vững như Trường Sơn thử thách với bao mưa gió của trời, của đời.

Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặn dò con cháu chuyện mai sau.

Hàng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.

Nguyễn Khoa Điềm trong chiều xúc cảm hướng nội, ông còn thấy ra Đất Nước đã thâm nhập vào trong chiều sâu của mỗi con người. Trong chính bản thân thi sĩ đã chan hoà bóng hình tinh hoa của đất nước, tan trong dòng máu thắm, vang lên trong âm điệu giọng nói ngọt ngào. Nhà thơ cảm nghiệm rằng:

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước

Khi hai đứa cầm tay

Đất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm

Khi chúng ta cầm tay mọi người Đất Nước vẹn tròn to lớn.

Quả là tinh tế! Nguyễn Khoa Điềm như đang tự phân thân để kiểm chứng lại mình. Đất Nước trong ta hài hoà nồng thắm, thấy được qua màu da, giọng nói, nếp nghĩ, cách làm. Mang quốc tịch Việt , khi ta so sánh trong mối tương quan với bạn bè quốc tế, thì nhận diện sự khác biệt ấy không mấy khó khăn. Nó giúp ta tự hào với lịch sử anh hùng, với giang sơn cẩm tú, với dân tộc nhân ái bao dung, với mỗi con người thuỷ chung trách nhiệm, để rồi lòng dặn lòng rằng:

Mai sau này con ta lớn lên

Con sẽ mang Đất Nước đi xa

Đến những tháng ngày mơ mộng

Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời…

Nhà thơ với con mắt thăm thẳm nhìn sâu về “bốn nghìn năm đất nước”, lung linh trong cõi mênh mang sông núi Việt Nam ấy, không ai khác là Nhân Dân bình dị, nhưng:

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.

Từ những ý niệm đúng đắn ấy nhà thơ đi đến một kết luận quan trọng:

Đất nước này là Đất Nước của nhân dân

Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại.

Chân lí hiển nhiên là vậy nhưng không phải ai cũng ý thức. Nguyễn Khoa Điềm nhắc lại và nhấn mạnh qua từ “Nhân Dân” viết hoa trân trọng ấy, thiết nghĩ không thừa đối với những kẻ phôi phai tình đất nước. Nhà thơ so sánh Đất Nước như một dòng sông chảy mãi từ quá khứ cho đến tương lai trường tồn cùng nhân loại. Trên dòng chảy ấy tất có những thác ghềnh, nhưng điều ấy có hề chi khi nhân dân là người chèo lái con thuyền Tổ quốc, thì nói như Bác Hồ: “khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Thi nhân đã khép lại dòng suy tưởng của mình bằng một giai điệu đầy lạc quan:’

Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…

Tiếng hát của Nguyễn Khoa Điềm cất lên trong thời gian khó bởi cuộc chiến tranh chống Mỹ chưa thành, nhưng lịch sử luôn như dòng nước chảy xuôi ; vấn đề là con người “biết trồng tre đợi ngày thành gậy, đi trả thù mà không sợ dài lâu” .

Hôm nay, nhìn lại Đất Nước vẹn tròn to lớn, dù kinh tế còn khó khăn, nhưng chúng ta lại có sức mạnh của độc lập tự do làm tiền đề căn bản, có nhân dân sáng tạo anh hùng, chắc chắn lớp con cháu hôm nay “sẽ mang Đất Nước đi xa, đến những tháng ngày mơ mộng” trong một tương lai không xa, để Nhân Dân từng chịu quá nhiều vất vả nhọc nhằn trong quá khứ có được cuộc đời hạnh phúc trong bầu không khí hoà bình thắm tình hữu nghị.

                                                       ĐỀ 3

                         Phân tích tư tưởng Đất nước của nhân dân 


Chủ đề về đất nước đã như một dòng suối thấm nhuần vào biết bao trang văn, đặc biệt là khi nước ta còn trong những ngày chiến đấu... Đất Nước - một đề tài không mới nhưng chưa bao giờ cũ. Từ Nam Quốc Sơn Hà của Lí Thường Kiệt, chúng ta đã thấy ý thức về lòng tự tôn dân tộc, về độc lập nước nhà được khẳng định. Cho tới bản cáo trạng tội ác giặc Minh của Nguyễn Trãi, rồi đến lời tuyên bố bất hủ trong Tuyên Ngộn Độc Lập của Hồ Chí Minh năm 1945, tất cả đều khẳng định Đất Nước của chúng ta đã trải qua biết bao gian khó để giữ vững nền tự do, đánh đuổi quân xâm lược. Nguyễn Khoa Điềm đã có một sáng tạo vô cùng mới mẻ với bản trường ca Mặt Đường Khát Vọng của mình. Đặc biệt trong chương V mang tên Đất Nước, nhà thơ không chỉ cho chúng ta thấy một Việt Nam đi từ bom đạn đến ngày tháng hòa bình, mà Nguyễn Khoa Điềm còn làm người đọc thổn thức trước vẻ đẹp của đất nước trên mọi phương diện qua một phong cách nghệ thuật tài hoa và độc đáo... Nhưng điều cốt yếu cần nhận thấy ở đây, nếu không nhắc tới sẽ là một sự thiếu xót, đó chính là đóng góp của Nguyễn Khoa Điềm về mặt tư tưởng cho nền văn học nước nhà: tư tưởng Đất Nước của nhân dân. Tư tưởng ấy "như một sợi chỉ đỏ" xuyên suốt văn bản đã thực sự làm tăng thêm giá trị cao đẹp cho tác phẩm...

"Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Đất Nước có từ ngày đó..."

Bài thơ mở đầu giống như một câu truyện... Dường như tác giả đang khắc họa lại hình bóng đất nước từ những thuở rất xa. Mỗi con người sinh ra, đều có một mốc thời gian xác định. Còn Đất Nước? Đất Nước có tự bao giờ? Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo diễn tả rằng "Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi"... Chẳng phải đây là cái thú vị lắm sao. Từ lâu nay, mấy ai nghĩ tới câu hỏi "Đất Nước có tự bao giờ?" Như vậy, trong Nguyễn Khoa Điềm không chỉ là lòng yêu nước, mà còn là một trái tim say mê nghiên cứu khám phá... Và cũng chính từ khám phá của Nguyễn Khoa Điềm, mà ta thấy Đất Nước như được đặt vào một mạch vận động của thời gian. Đất Nước cũng như con người lớn lên theo năm tháng. Đặc biệt là trong những ngày tháng ấy của Đất Nước đều có hình bóng người dân. "Câu truyện ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể" hay "miếng trầu bà ăn" đều là những điều bình dị thôi. Nó gắn với tuổi thơ êm dịu của con trẻ. Nó như một chiếc nôi để ta tìm về cho tâm hồn những phút giây tĩnh tại... Nguyễn Khoa Điềm đã nhắc tới những điều thân thuộc như thế để trả lời cho câu hỏi lạ lùng Đất Nước có từ bao giờ ấy... Với sự lí giải này, với những hình ảnh hết mực gần gũi bình dị này, ta thấy Đất Nước sao mà gần quá, sao mà gắn bó giản dị quá...

Không chỉ viết về "Đất Nước bắt đầu" mà Nguyễn Khoa Điềm còn viết cả khoảng thời gian mà "Đất Nước lớn lên". Ở đây, ta bắt gặp những câu truyện giân dan quen thuộc mà truyện miệng nhau tới mức có khi đã thuộc lòng. Câu truyện thánh Gióng, câu truyện về giang sơn ta những ngày đầu thuở dựng nước được nhắc tới khéo léo trong đoạn thơ. Ngay từ những dòng đầu tiên này, ta đã thấy hình bóng nhân dân rồi. Những người dân "biết trồng tre mà đánh giặc." Lẽ nào có thể phủ nhận rằng biết bao chiến thắng và kì tích trong lịch sử dân tộc lại không phải từ sức mạnh nhân dân? Nguyễn Khoa Điềm đã gợi mở những ý nghĩ ban đầu về tư tưởng Đất Nước - Nhân Dân như vậy. Bằng những hình ảnh hết mực giản dị và gần gũi, những câu truyện đã đi vào lòng người từ thuở còn bé thơ...

Điều đặc sắc trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Khoa Điềm đó là ông đã sử dụng rất nhiều thi liệu dân gian. Với khổ thơ đầu của chương V, nét dân gian thể hiện ở hình ảnh được sử dụng, thể hiện ở những câu truyện mà tác giả nhắc tới, những phong tục như búi tóc, rồi cách đặt tên... Nhưng ngoài ra nó còn thể hiện rõ rệt trong việc lấy ý tưởng từ những bài ca dao của tác giả

Tay nâng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau

Với những câu mở đầu cho phần một, Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho ta hình ảnh Đất Nước một cách sinh động đầy yêu mến giản dị, lại như khắc họa được cả quá trinh 'lớn lên" của Đất Nước, thì ở đoạn tiếp theo, Đất Nước đã hiện lên rõ hơn với những lời định nghĩa cụ thể...

"Đất là nơi em đến trường
Nước là nơi anh tắm
Đất nước là nơi ta hò hẹn
Đất là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ"

Nguyễn Khoa Điềm đã tách hai khái niệm Đất và Nước để mang tới cho chúng ta một cái nhìn rõ nhất về Đất Nước. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân trong đoạn thơ này được thể hiện khiĐất Nước gắn với những sinh hoạt thường ngày của người dân. Mỗi câu thơ về Đất Nước đều sóng đôi cùng hình ảnh con người. Cũng như đoạn thơ trên, Nguyễn Khoa Điềm một lần nữa vận dụng vốn tri thức uyên thâm của mình về văn hóa dân tộc vào những trang thơ. Người đọc lại một lần nữa đến với hình ảnh Đất Nước qua con người của Đất Nước, đến với Đất Nước là những nét cổ truyền của dân tộc... Độc đoạn thơ trên, hẳn ai cũng nghĩ đến bài ca dao dịu dàng

Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt...

...

hay là nhớ về câu hò mênh mang của vùng Bình - Trị - Thiên "Con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc - con cá ngư ông móng nước biển khơi..."

Và Đất Nước dù có hiện lên qua hình ảnh nào đi chăng nữa, cuối cùng cũng về với nhân dân, là của nhân dân... Câu thơ "Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ" như một lời giải bày và khẳng định cho chân lí ấy, khẳng định cho tư tưởng Đất Nước - Nhân Dân trong thơ Nguyễn Khoa Điềm vậy...

Từ những lí giải về Đất Nước có tự bao giờ, từ định nghĩa về Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn vào lịch sử, rồi lại nhìn vào thế hệ muôn đời. Nhà thơ nặng lòng với Đất Nước muốn gửi gắm lời căn dặn của mình cho con cháu những thế hệ đương thời hoặc cả sau này... Từ cái thuở "Lạc Long Quân và Âu Cơ - Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng", từ những người đã khuất hay những người vẫn đang tồn tại, tất cả trong họ đều có một phần Đất Nước... Ta đã từng sống vì Đất Nước từ thuở hoang dại ngày xưa, của những ngày buổi đầu dựng nước còn cơ cực, của những ngày mà truyền thuyết con Rồng cháu Tiên vẫn truyền nhau như niềm tự hào dòng giống con Lạc cháu Hồng. Thì bây giờ, ta vẫn phải sống vì lí tưởng, vì Đất Nước như vậy.

"Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ..."

Theo tôi đây là đoạn thơ rất hay của chương Đất Nước này. Nó khái quát cả một thời gian dài trong lịch sử người Việt, làm nhấn mạnh thêm vào truyền thống yêu nước, giữ nước và dựng nước của nhân dân ta... Và câu thơ như một lời răn dạy... Hành động "cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ" là một nét văn hóa đẹp của người Việt. Những con người đã hiến dâng cho Đất Nước lại biết tôn thờ truyền thống, tôn thờ lịch sử hay cũng chính là tôn thờ Đất Nước... Bởi Đất Nước là của nhân dân, vận mệnh nước nhà nằm trong tay mỗi người chúng ta nên ta cần phải giữ gìn, phải trân trọng và nhận thức được trách nhiệm của mình

"Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn
Mau này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng..."

Đất Nước không chỉ có ở câu truyện cổ tích, không chỉ được tái hiện bởi lịch sử... Nếu như vậy, e rằng nhiều ý kiến sẽ cho rằng bài thơ Đất Nước vẫn còn nặng về chính trị, nặng về kêu gọi, mang màu sắc chính luận mà thiếu đi chất trữ tình... Nhưng không, Nguyễn Khoa Điềm về mặt nghệ thuật đã kết hợp trong đoạn trích Đất Nước những gì đặc sắc nhất của văn chính luận, của tùy bút và của thơ trữ tình khiến bài thơ lột tả được hết vẻ đẹp nghệ thuật cũng như khắc họa một cách độc đáo những điều mà Nguyễn Khoa Điềm muốn truyền đạt. Còn về nội dung, ở đoạn thơ này, ta còn thấy Đất Nước hiện hữu trong tình yêu đôi lứa... Nếu so sánh tình yêu đôi lứa trong những trang thơ trước cách mạng tháng tám, ta sẽ thấy tình yêu được nhắc đến mang màu sắc cá nhân, ghi đậm dấu ấn của những "cái tôi", về khao khát hưởng thụ và dâng hiến trong tình yêu... Nhưng ở thời kì này, khi mà Nguyễn Khoa Điềm viết Đất Nước để kêu gọi nhân dân miền Nam, đặc biệt là người trẻ nhận thức được ý thức trách nhiệm của mình, ông đã đặt tình yêu đôi lứa vào tình yêu Đất Nước. Nó không hề là một sự gò ép mà trái lại, làm trọn vẹn và toàn diện thêm tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân. Tình yêu của "anh và em hôm nay" được đặt trong một tập thể... Vì thế, không chỉ có anh và em nắm tay, làm Đất Nước như "hài hòa nồng thắm", mà ở đây còn là cái "nắm tay mọi người". Nguyễn Khoa Điềm đã mang chất trữ tình vào một bài thơ đậm màu sắc chính trị, một bản trường ca về ca ngợi Đất Nước và kêu gọi người dân... Hẳn không nhà thơ nào có thể làm được hơn thế trong thơ... Nỗi khát khao, nỗi trăn trở về trách nhiệm của người với người còn được thể hiện ở niềm gửi gắm cho những thế hệ sau... "Con sẽ mang Đất Nước đi xa - Đến những tháng ngày mơ mộng..." Tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân được thể hiện trong đoạn thơ này đặc biệt biết mấy... Nguyễn Khoa Điềm gửi vào nhân dân niềm tin tưởng, tin tưởng rằng tương lai tốt đẹp của Đất Nước không nằm đâu xa mà nằm trong tay chính những con người cần cù bình dị...

Một tiếng gọi tha thiết được cất lên

"Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời"

Phải rồi, Đất Nước là máu xương của mình. Đất Nước thân thuộc và gắn bó ruột thịt với chúng ta. Câu thơ đặt dưới hình thức một câu mệnh lệnh nhưng nghe sao vẫn uyển chuyển thiết tha bởi lời gọi "Em ơi em" và giọng điệu thân tình... Cũng từ những hình ảnh máu xương và khỏi lửa, ta chợt nhớ về một tập thể những con người oai hùng, tập thể ấy đã tạo nên một Đất Nước oai hùng

"Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa"

(Đất Nước - Nguyễn Đình Thi)

Ở phần sau của đoạn trích, tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân được thể hiện đặc biệt rõ nét và vô cùng độc đáo. Mở đầu là những danh lam thắng cảnh nổi tiếng của quê hương. Nhưng Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn nhận những danh thắng ấy dưới con mắt đặc biệt hướng về nhân dân mình...

"Những người vợ nhớ chồng góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm"

Có thể nhận thấy ở đoạn thơ này, sự xuất hiện dày đặc những địa danh của quê hương là một điều hết sức đặc biệt. Nguyễn Khoa Điềm không chỉ muốn giới thiệu về vẻ đẹp của Đất Nước mình mà ông còn muốn nói một điều, chính những người dân bình dị đã tạo nên biết bao vẻ đẹp ấy. Từ người vợ nhớ chồng, cặp vợ chồng yêu nhau, đó đều là những điển tích được trích dẫn ra, là điển tích lí giải cho sự tạo thành của những cảnh đẹp bây giờ. Nguyễn Khoa Điềm luôn coi Đất Nước và Nhân Dân là một. Nhân dân, chính nhân dân mới là những người làm nên đất nước. Hình ảnh trong thơ Nguyễn Khoa Điềm tuy là được liệt kê nhưng hoàn toàn không phải là liệt kê một cách tràn lan mà nó rất có chọn lọc. "Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương" nhắc nhớ ta về truyền thuyết nơi đất tổ vua Hùng có chín mươi chín con voi quây quần thần phục. Nó nhưng một truyền thống yêu nước và hướng về cội nguồn quý báu mà nhân dân ta từ bao đời nay vẫn gìn giữ. Cội nguồn, quê hương vẫn là một cái gốc mà người dân Việt không bao giờ quên trong mỗi cuộc đời. Rồi núi Bút, non Nghiên được tạo nên bởi "người học trò nghèo". Câu thơ làm người ta nghĩ tới sự hiểu hóc, chăm chỉ cần cù trong học tập rèn luyện của người Việt. Ông cha ta từ bao đời nay đã vượt qua cái nghèo, cái khổ nhưng vẫn dành tâm sức cho việc rèn luyện bản thân. Những người tài ắt hẳn cũng lớn lên, thành công và đóng góp cho nước nhà từ đức tính siêng năng ấy. Rồi chỉ những người dân bình thường thôi, cũng góp phần tạo nên danh thắng Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm ở Nam Bộ. Điều đặc biệt là nhà thơ đã liên tưởng rất độc đáo những tên của địa danh này để rồi gắn vào đằng sau đó là sự đóng góp của người dân. Trải dài qua khổ thơ, từ "góp" liên tục được xuất hiện. Không phải là một từ nào khác mà là "góp". Đôi khi chỉ một cách dùng từ, một từ ngữ làm điểm nhấn cũng tạo được cho tác phẩm giá trị riêng và thành công đến bất ngờ. Từ "góp" thể hiện không chỉ một người, mà là nhiều người cùng chung tay, cùng tạo nên một Đất Nước Việt Nam với nhiều cảnh đẹp như thế. Động từ "góp" nó thể hiện sự thân tình, như một cách nói của khẩu ngữ dân gian vô cùng quen thuộc, nó lại thể hiện được cái tâm thế, sao mà bình dị, sao mà cần mẫn của mỗi người dân khi đóng góp cho Đất Nước đến thế... Nguyễn Khoa Điềm đã không bỏ đi một chi tiết nào, mà đều lựa chọn cẩn thận, từ hình ảnh đến từ ngữ để đoạn thơ hiện lên hay và tập hợp được những gì tinh túy nhất. Tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân ở đoạn này không chỉ dừng lại ở lời kêu gọi, mà nó còn nâng lên tầm cao hơn, bởi nó nhắc nhở chúng ta rằng Đất Nước được tạo nên từ người dân bình thường mà thôi...

Lướt qua một loạt những địa danh, vẻ đẹp của Đất Nước đã hiện ra đủ đầy ở phương diên Địa Lý, Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định

"Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta..."

Lời khẳng định này đã thực sự đem tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân thấm vào lòng người đọc. Cách diễn đạt của Nguyễn Khoa Điềm luôn luôn mang đến sự mới mẻ cho độc giả. "Trên khắp ruộng đồng gò bãi" đã là một sự khái quát không có gì có thể khước từ. Nó không còn chỉ là ở những địa danh đã nêu ở trên, không phải chỉ tồn tại ở một nơi nào đó, mà nó là ở khắp Đát Nước ta, khắp sông núi ta... Cũng tương tự như vậy với câu thơ "Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy - những cuộc đời đã hóa núi sông ta..." Câu thơ trước nâng tầm khái quát về không gian thì câu thơ sau lại nâng tầm khái quát về thời gian. Nó hòa quyện vào nhau, tổng hợp cùng nhau để cùng tô đậm cho tư tưởng Đất Nước - Nhân Dân xuyên suốt mạch bài thơ...

Lại một lần nữa, Nguyễn Khoa Điềm cất tiếng gọi tha thiết

"Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ"

Thêm một lần nữa Nguyễn Khoa Điềm đã làm thức tỉnh trong ta ý thức về trách nhiệm của mình với Đất Nước. Để độc giả nhận thấy được những lời mình muốn căn dặn, Nguyễn Khoa Điềm không đi nặng vào giáo điều triết lí. Ông dùng chính những con người để thức tỉnh và mời gọi con người. Như một quy luật, một điều tất yếu không thể nào khác, bốn nghìn năm lịch sử của chúng ta đã đi qua để lại dấu ấn bằng những cuộc đánh đuổi quân xâm lược. Mà những chiến thắng ấy vì đâu mà có? Những trang sử ấy do ai viết nên? Ai là người đã cầm súng chiến đấu? Ai là người đã xông pha ra mặt trận? Ai là người đã kiên quyết giữ cho Đất Nước không rơi vào tay của quân giặc hung tàn? Đó chính là NHÂN DÂN! Nguyễn Khoa Điềm không hướng về những vị danh tướng, những bậc anh hùng vốn hay được ca ngợi trong văn học kim cổ, ông viết về

"Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước"

Nét đặc biệt trong đoạn trích Đất Nước thuộc trường ca Mặt Đường Khát Vọng là ở đó. Nguyễn Khoa Điềm không một chút rời xa khỏi tư tưởng Đất Nước - Nhân Dân của mình. Mỗi câu thơ nói về Đất Nước, dù đó là miêu tả cảnh đẹp, là khắc ghi niềm tự hào dân tộc, là kể lại truyền thống lịch sử, chung quy lại đều để làm sáng tỏ cái tư tưởng cốt lõi ấy. Nhà thơ đã khám phá một nét mới mẻ độc đáo và biết cách khái quát nó lên, để nó trở thành một đóng góp giá trị về tư tưởng cho Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 đến 1975. Những con người xuất hiện trong thơ Nguyễn Khoa Điềm đều là những người chung chung. Họ không mang một cái tên riêng nào cả, không phải là những vị anh hùng với chiến tích quá lẫy lừng như sử sách. Đó chỉ là những con người "đã sống và chết" một cuộc đời "giản dị và bình tâm". Tại sao lại là "giản dị" và "bình tâm"? Bởi cuộc đời họ sinh ra là để hy sinh cho Tổ Quốc. Một cuộc đời biết sống vì Tổ Quốc, nghe theo lời kêu gọi của nước nhà lúc đau thương, nó lớn lao mà vẫn giản dị, nó có hy sinh và đau khổ mà vẫn thật bình tâm... Tất cả những điều mà họ làm được ấy đều được Đất Nước và bao thế hệ ghi nhận lại. Sự đóng góp ấy đã đúc kết nên dải đất hình chữ S vẫn vẹn nguyên qua năm tháng, đập tan biết bao ách xâm lược và thống trị dã man đã từng đàn áp nhân dân ta...

Và để bản trường ca thật sự có chiều sâu, Nguyễn Khoa Điềm còn làm sáng tỏ tư tưởng Đất Nước - Nhân Dân của mình qua việc khắc họa Đất Nước ở chiều sâu văn hóa. Nền văn hóa ấy cũng bắt nguồn từ nhân dân, nền văn hóa ấy lại được lưu giữ và truyền cho ngàn đời sau bởi nhân dân. Truyền thống ấy kết tinh ở nhân dân... Vậy nên, chính việc nói tới chiều sâu văn hóa dân tộc mình đã giúp Nguyễn Khoa Điềm làm cho tư tưởng Đất Nước - Nhân Dân thêm trọn vẹn

"Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại"

Tập tục của một nền nông nghiệp lúa nước được nhà thơ tái hiện qua những câu văn. Từ những điều tưởng chừng như tầm thường, bé nhỏ như hòn than, con cúi cũng cho thấy một phần nào đó bản sắc riêng của dân tộc. Người dân Việt Nam là thế, trải qua bao đời họ vẫn giữ trong mình những phẩm chất riêng không thể lẫn vào đâu... Những công việc lao động đã từ ngàn đời nay vẫn còn tồn tại... Rồi truyền thống yêu nước, căm thù giặc... Tất cả đã làm nên một bản sắc riêng cho dân tộc Việt... Và Nguyễn Khoa Điềm đã dùng chính những bản sắc ấy, dùng chính những gì là phong tục tập quán ấy, để nói lên một điều

"Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại"

Đất Nước - Nhân dân tư tưởng này đã xuyên suốt bài thơ ở mạch nghầm của văn bản giờ đã được khẳng định một cách rõ ràng. Đất Nước - Nhân dân không thể tách rời. Nhân Dân đã làm nên Đất Nước, nhân dân đã gìn giữ và bảo vệ Đất Nước... Những người trẻ hay những người già, chẳng phân biệt gái trai đều là một trong hàng triệu người đang góp phần vào công cuộc giữ vững xây dựng nước nhà... Hai câu thơ trên có sức lay động mạnh mẽ trong lòng người. Nó như một nguồn ánh sáng thức tỉnh tâm cam ta, thức tỉnh trong ta về một niềm tự hào dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm đã gói gọn tất cả tư tưởng của mình chỉ bằng hai câu thơ mà thôi. Người ta sẽ nhìn lại vào năm tháng đã qua, sẽ đưa mắt theo chiều rộng hướng về không gian Địa Lý, rồi lại lắng lòng mình xuống sâu cùng văn hóa quê hương... Tất cả, đều hiểu một điều: "Đất Nước này là Đất Nước nhân dân"...

Vậy còn "Đất Nước của ca dao thần thoại"... Hãy thử đọc và cảm nhận xem

"Dạy anh biết "yêu em từ thuở trong nôi"
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre mà đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu"

Biết bao thi liệu dân gian được lấy từ những câu ca dao mà Nguyễn Khoa Điềm đã gửi gắm vào đây. Sự uyên bác trong trí thức lẫn tài năng nghệ thuật văn chương đã khiến cho bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm dù sử dụng mật độ khá dày những điển tích dân gian, ca dao dân ca nhưng vẫn uyển chuyển và không khô cứng...

Con người Việt Nam được thể hiện qua một trái tim yêu, qua một câu ca dao rất đáng yêu ý nhị

"Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc anh ngồi anh ru"

Con người Việt Nam lại được khắc họa bởi lòng biết quý trọng công sức lao động

"Cẩm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng"

Và chưa hết, ý chí quyết tâm chống giặc bảo vệ Đất Nước mặc cho thời gian, mặc khó khăn gian khổ một lần nữa được nhắc đến

"Thù này ắt hẳn còn lâu
Trồng tre thành gậy, gặp đâu đánh què"

Khi xưa Phan Bội Châu đã nói "Dân là dân nước, Nước là nước dân"... Tư tưởng Đất Nước - Nhân Dân nguyên sơ hình thành từ ngày đó. Hay một câu nói nổi tiếng của bậc kì tài xưa cũng căn dặn rằng phải "Lấy dân làm gốc"... Thế nhưng, chỉ đến Nguyễn Khoa Điềm, tư tưởng Đất Nước - Nhân Dân mới thật sự mang sức khái quát, thực sự được đưa lên một tầm cao tư tưởng mới, thực sự làm dậy lên những rung cảm trong lòng người đọc và trở thành đóng góp quý giá vào bậc nhất cho văn học Việt Nam.

Đoạn trích Đất Nước ở chương V của trường ca Mặt Đường khát vọng thì đã khép lại nhưng những dư âm vẫn luôn gợi mở nhiều suy tư trong mỗi chúng ta. Nguyễn Khoa Điềm từ tình cảnh nước nhà, đã viết nên bài thơ để thức tỉnh ý thức của tầng lớp trẻ miền Nam. Ông đã đưa vào bản trường ca, đặc biệt là đoạn trích Đất Nước những gì đẹp nhất và tinh túy nhất của nghệ thuật, của nội dung và giá trị về tư tưởng. Đó quả thực là sự lao động miệt mài dày công sức và đáng trân trọng. Văn học Việt Nam sẽ còn ghi tên Nguyễn Khoa Điềm, như một người đầu tiên đem tư tưởng Đất Nước - Nhân Dân với tất cả thế hệ người đọc và có sức ảnh hưởng mạnh mẽ. Một hồn thơ nặng lòng với Đất Nước, một cây bút tài hoa cùng những khám phá sâu sắc mới mẻ về tư tưởng Đất Nước - Nhân Dân đã làm những ánh văn của Nguyễn Khoa Điểm trở thành một kiệt tác nghệ thuật bất hủ.

Bài viết gợi ý: