Vợ nhặt (Kim Lân)
1.Tác giả:
- Quê quán: Từ Sơn – Bắc Ninh.
- Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ học hết bậc tiểu học rồi đi làm.
- Tác phẩm chính: 2 tập truyện ngắn “Nên vợ nên chồng” và “Con chó xấu xí”.
- Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn với hai mảng đề tài chính là nông thôn và người nông dân.
- Trong tác phẩm của ông luôn thấp thoáng cuộc sống và con người của làng quê Việt Nam nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời, thật thà, chất phác mà thông minh, hóm hỉnh, tài hoa.
2.Hoàn cảnh ra đời tác phẩm:
- Truyện “Vợ nhặt” tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám. Đến năm 1954, tác giả dựa vào một phần cốt truyện cũ để hoàn thiện tác phẩm.
- “Vợ nhặt” được in trong tập “Con chó xấu xí” (1962).
3.Nhan đề:
Nhặt: hành động tự nhiên, không chủ dịnh, nhặt nhạnh một thứ đồ vật nào đó bị rơi vãi.
Vợ: là người bạn đời, người quyết định đến hạnh phúc vợ chồng của cả một đời người.
- Vợ nhặt: Con người rẻ rúng như đồ vật, rơi vãi bên đường, dễ dàng nhặt được.
=> Tố cáo tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945.
- Trong nạn đói đó: Tràng nuôi thân còn chưa đủ, song anh vẫn sẵn sang đưa cô gái về nhà cưu mang.
=> Phát hiện ra tấm lòng nhân hậu, giàu nghị lực sống và khát vọng yêu thương của những người lao động nghèo.
- Nhan đề truyện mang giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc đồng thời góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm.
4.Tình huống truyện:
Thành công lớn nhất của Kim Lân trong truyện “Vợ nhặt” là sáng tạo một tình huống truyện bất ngờ, độc đáo, éo le.
- Khái niệm “tình huống truyện”: 
+ Là cái “tình thế xảy ra truyện”, là “một khoảnh khắc mà trong đó sự sống hiện ra đậm đặc”, là cái “khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người” (Nguyễn Minh Châu).
+ Tình huống truyện còn được hiểu là mối quan hệ đặc biệt giữa nhân vật này với nhân vật khác, giữa nhân vật với hoàn cảnh và môi trường sống, qua đó nhân vật bộc lộ rõ tâm trạng, tính cách hay thân phận của nó, góp phần thể hiện sâu sắc tư tưởng của tác phẩm (Sách GV Ngữ văn 11 tập 1, trang 122).
- Tóm tắt và phân tích tình huống: Xoay quanh chuyện anh Tràng đưa một cô gái về làm vợ - với người dân xóm ngụ cư, đó là một chuyện lạ, đầy ngạc nhiên vì:
+ Tràng là người xấu xí, thô kệch: Hai con mắt nhỏ tí, gà gà, thân hình to lơn, vập vạp, hai quai hàm nhô ra, đầu trọc, nhẵn, lưng to rộng như lưng gấu, ngửa mặt cười hềnh hệch, hay lảm nhảm.
+Tràng lấy vợ lúc đang bị nạn đói đe dọa: Không gian tranh tối, tranh sáng, nhợt nhạt, bong người xanh xám như bóng ma, ngổn ngang khắp lều chợ. Cái đói làm thay đổi cuộc sống bình lặng của xóm ngụ cư: khuôn mặt hốc hác, u tối, trẻ con ngồi ủ rũ , không buồn nhúc nhích, mùi đống dấm, tiếng khóc hờ, tiếng quạ kêu thê thiết. 
=> không khí chết chóc, ảm đạm, nặng nề, rùng rợn, người dân đang chịu cái đói khủng khiếp. 
- Ý nghĩa của tình huống truyện độc đáo, éo le:
+Giá trị hiện thực: Là lời tố cáo tội ác của bọn thực dân phát xít và tay sai của chúng đã gây nên nạn đói kinh hoàng cho dân tộc.
+ Giá trị nhân đạo: Trong cái đói, những con người nghèo khổ vẫn sẵn sang cưu mang đùm bọc lẫn nhau, con người không nghĩ đến cái đói mà hy vọng sự sống, hướng tới tương lai và khát vọng hạnh phúc. 
+ Tình huống truyện làm nổi bật đặc điểm nhân vật và chủ đề tác phẩm.
5.Diễn biến tâm trạng của các nhân vật:
a. Người dân xóm ngụ cư: 
- Lạ lắm, đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra.
- Hiểu được đôi phần: “Lo thay cho Tràng, khuôn mặt hốc hác, u tối rạng rỡ hẳn lên”.
=> Tâm trạng vừa mừng vừa lo, hạnh phúc liệu có bền vững, có trụ được với cái đói không?
b. Nhân vật Tràng: 
- Lúc đầu: 
+ Bất ngờ trước sự việc đó: từ đùa mà thành thật,chỉ tầm phơ tầm phào.
+ Thấy “chợn” , “thóc gạo thế này đến thân mình có nuôi nổi không mà còn đèo bòng”, rồi tặc lưỡi: kệ.
=> Quyết định tưởng rằng rất thiếu trách nhiệm trước hạnh phúc của một đời người, lo bởi trò đùa quá trớn.
=> Tràng không đủ nhẫn tâm để hất đi. Đó là một con người có tấm lòng nhân hậu, ẩn sau nó là khát vọng một cuộc sống bình thường: có vợ có chồng và gia đình. 
- Trên đường về nhà: khuôn mặt “phớn phở khác thường”, tủm tỉm cười “mặt vênh lên tự đắc”.
=> Niềm vui sướng hạnh phúc tràn ngập trong lòng Tràng, đi bên cạnh người đàn bà, Tràng quên hết mọi cảnh sống ê chề, “trong lòng hắn giờ đay chỉ còn tình yêu giữa hắn và người đàn bà đi bên”. 
=> Tràng cảm nhận được nhiều tình cảm mới mẻ khác nảy sinh, đó là niềm vui sướng, hạnh phúc, quên đi mọi khó khăn của cảnh nghèo đói đang ám ảnh. 
- Sáng hôm sau: 
+ Khung cảnh: Ánh sáng mặt trời tràn ngập, căn nhà được quét dọn sạch sẽ, gọn gàng.
+ Con người: Vợ là người đàn bà đúng mực, hiền hậu, không chao chát. Bà mẹ nhẹ nhõm, tươi tỉnh. 
=> Tràng cảm động, thấy gắn bó hơn với gia đình, thấy mình đã nên người. 
=> Niềm vui sướng, hạnh phúc gắn liền với ý thức bổn phận và trách nhiệm.
- Đánh giá: Tràng mang những phẩm chất tiêu biểu của con người lao động: nghèo khổ nhưng giàu tình yêu thương, luôn khao khát hạnh phúc, có ý thức xây dựng một mái ấm gia đình. 
c. Bà cụ Tứ:
- Tâm trạng khi gặp người con dâu:
+ Ngạc nhiên, băn khoăn, không hiểu trước thái độ săn đón của con trai và lười chào của người đàn bà xa lạ.
+ Nghe giải thích – bà hiểu, cúi đầu nín lặng: bà xót thương con lấy vợ vào năm đói, chịu nhiều thiệt thòi. Bà túi phận nhiều, là mẹ mà khồn lo được hạnh phúc cho con, khi con có hạnh phúc cũng không chắc đã bảo vệ được vì nạn đói.
=> Trong nhiều nỗi âu lo, bà không một chút bực bội vì con mình đã tự ý quyết định, bà cũng không khinh thị. Đó là người mẹ giàu lòng vị tha, thương con, hiểu con.
+ Tâm sự với nàng dâu: phá tan không khí nặng nề “u cũng mừng lòng”, tâm sự về gia cảnh nghèo vừa thể hiện sự tin yêu vừa ủy thác trách nhiệm với con dâu, bà dặn dò con sống hòa thuận, có trách nhiệm, động viên con tin tưởng, vượt qua khó khăn.
=> Người mẹ độ lượng, bao dung, thương con, thương dâu hết mực. 
- Tâm trạng sáng hôm sau:
+ Niềm vui hạnh phúc của người mẹ nghèo khi con được “yên bề gia thất” hiện lên từ nét mặt, cử chỉ đến lời nói: “ Cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn lên” dáng đi không còn lọng khọng gìa nua mà nhanh nhẹn quét dọn nhà cửa. 
+ Câu chuyện trong bữa ăn bà nói đầy lạc quan, “toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau”. 
=> Người mẹ nghèo không có vật chất quý giá cho con ngày cưới nhưng lại đem đến một tài sản vô giá – lời động viên hướng các con đến tương lai. 
- Đánh giá: 
+ Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lý tinh tế, sắc sảo, tạo dựng tình huống truyện độc đáo, làm nổi bật tính cách nhân vật.
+ Trong bức tranh xã hội xám ngắt ấy, tấm lòng nhân hậu, giàu nghị lực của bà cụ Tứ là ngọn lửa tỏa hơi ấm ra xung quanh với một niềm lạc quan về tương lai tươi sáng. 
+ Bà tiêu biểu cho phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam: nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha.
d. Người “vợ nhặt”: 
- Xây dựng nhân vật này, Kim Lân muốn phơi bày sự tàn khốc của cái đói. Chỉ một thời gian ngắn giữa hai lần gặp, thị đã biến đổi đến mức Tràng không nhận ra “thị gầy sọp hẳn đi, trên cái gương mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.” Cái đói không chỉ tàn phá hình hài mà còn làm cho một người phụ nữ trở nên trơ trẽn đến mức đòi hỏi “có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu”, khi được mời thì “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc”, vì miếng ăn mà sẵn sàng theo không một người đàn ông.
- Chuyển biến của người đàn bà ấy từ khi theo Tràng:
+ Trên đường về nhà, “thị có vẻ rón rén, e thẹn”.
+ Về đến nhà Tràng: thị khép nép, chỉ dám “ngồi mớm ở mép giường”, khi bà cụ Tứ về thì vội đứng dậy, lễ phép chào. Suốt trong câu chuyện cảu bà cụ, thị không dám ngồi, ngay cả khi bà cụ bảo ngồi, “thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ”.
+ Đến sáng hôm sau, thị hoàn toàn thay đổi: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn”. 
- Đánh giá: Với nhân vật người vợ nhặt, Kim Lân muốn thể hiện một niềm tin đầy ý nghĩa nhân văn: tình thương và mái ấm gia đình có đủ sức mạnh để cảm hóa con người. 
6.Giá trị nhân đạo:
- Khái niệm giá trị nhân đạo trong tác phẩm văn học: Là tình yêu thương con người, là mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người được nhà văn thể hiện thông qua tác phẩm. 
- Giá trị nhân đạo trong truyện “Vợ nhặt”: 
+ Tố cáo tội ác phát xít và thực dân gây nên nạn đói thảm khốc cho dân ta năm 1945 (phân tích nhan đề và tình huống truyện: Tràng nhặt được vợ trong những ngày đói thê thảm).
+ Đồng cảm sâu sắc với số phận bèo bọt, rẻ rúng, của người lao động nghèo khổ 
(đi sâu phân tích chân dung, hành động nhân vật người vợ “nhặt”)
+ Ca ngợi sức sống mãnh liệt dù cận kề bên vực thẳm của cái đói, cái chết.
+ Thắp sáng niềm tin vào cuộc sống tương lai.
7.Hình ảnh lá cờ đỏ xuất hiện ở cuối truyện mang ý nghĩa đặc sắc. Lúc ấy, không khí bữa ăn trở nên nặng nề. Cảnh gia đình ấm cúng vui vẻ bị bóng đen của cái đói làm cho u ám. Tình vợ chồng, tình mẹ con đem lại ánh sáng và niềm hạnh phúc nhưng chưa đủ sức đưa họ thoát hẳn hoàn cảnh đày bóng tối. Tình trạng tưởng chừng như bế tắc. Hình ảnh lá cờ đỏ của Việt Minh và đoàn người đi phá kho thóc Nhật bỗng xuất hiện trong ý nghĩ Tràng. Hình ảnh ấy mở ra một lối thoát, đem lại một niềm hy vọng, một niềm tin tưởng mới mẻ. Qua đó, tác giả khẳng định: chỉ có Cách mạng mới đem lại niềm hạnh phúc thực sự cho con người. Và sở dĩ, Cách magj có được sức mạnh bởi nó đáp ứng được những khao khát thiết thực nhất của quần chúng.
8.Đặc sắc nghệ thuật:
- Tình huống truyện độc đáo, làm nổi bật chủ đề tác phẩm, tâm trạng và tính cách nhân vật.
- Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn.
- Giọng văn mộc mạc, giản dị, ngôn ngữ gần với khẩu ngữ.
- Ngòi bút Kim Lân điêu luyện trong nghệ thuật dựng cảnh, tạo không khí, tả người, đặc biệt là miêu tả tâm lý nhân vật.
9.Nhà văn nói về tác phẩm:
“Bối cảnh cuả truyện là khi cái đói hoành hành khắp nơi. Nhưng các nhân vật của truyện thì đứng ở ngưỡng cửa của cái đói. Nơi ngưỡng cửa khốn khổ đó, họ sẽ chứng tỏ số phận và tính cách của mình, đồng thời ở nơi đó họ sẽ bắt đầu một niềm tin mới, một niềm hạnh phúc mới, dù là rất mong manh”. (Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Giáo dục, năm 2000)

ĐỀ 1

  • Ý nghĩa tư tưởng và nét đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn Vợ nhặt - Kim Lân

Từ đầu năm 1940, phái xít Nhật nhảy vào Đông Dương. Nhân dân Việt Nam lâm vào tình thế một cổ hai tròng. Pháp tăng cường vơ vét bóc lột, tích trữ lương thực tiếp tục thực hiện chiến tranh. Nhật bắt nhân dân miền Bắc nhổ lúa trồng đay. Nạn vỡ đê mất mùa liên liếp xảy ra. Đến mùa xuân năm ất Dậu (1945), toàn dân ta lâm vào nạn đói khủng khiếp chưa từng có trong lịch sử, riêng ở đồng bằng Bắc Bộ đã có tới hơn hai triệu người bị chết đói. Họ chết trên đường tha phương cầu thực, chết thê thảm bên gốc cây, hè đường, quán chợ… Trong hoàn cảnh đó, Mặt trận Việt Minh đã kêu gọi phá kho thóc của Nhật cứu đói dân nghèo và phát động họ vùng lên làm cuộc cách mạng tháng Tám 1945. Nỗi đau này làm xúc động giới nghệ sĩ và đã hiện hình trong không ít những tác phẩm của các nghệ sĩ như Nam Cao, Tố Hữu, Tô Hoài, Nguyền Đình Thi... Bằng tài năng đích thực và một trái tim gắn bó xót thương đối với những kiếp người nông dân khốn khổ lam lũ, Kim Lân đã đóng góp một truyện ngắn có chiều sâu tư tưởng và giá trị nghệ thuật đặc sắc: Vợ nhặt.

Nội dung truyện Vợ nhặt hết sức đơn giản. Tác phẩm được xây dựng theo chiều diễn biến tâm lí nhân vật. Đầu tiên Kim Lân miêu tả cành Tràng, một nông dân thô kệch đưa vợ về nhà, tiếp theo, nhà văn để cho Tràng nhớ lại việc mình “nhặt” được vợ, và cuối cùng là tâm trạng của mọi người trong gia đình, đặc biệt là tâm trạng của Tràng và bà cụ Tứ nhân việc gia đinh có thêm một thành viên mới. Cốt truyện đơn giản, nhưng Vợ nhặt có nội dung tư tưởng sâu sắc.

Trước hết, qua truyện ngắn Vợ nhặt, nhà văn phản ánh sinh động tình cảnh khốn khổ của nhân dân ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945, dưới chế thực dân phong kiến và tình cảm hướng về cách mạng của họ.

Ngay từ trang đầu tiên, nhà văn đã dựng lên một bức tranh ảm đạm: Cái làm thay đổi cuộc sống vốn bình lặng của xóm ngụ cư. Cái đói làm cho bọn con ngồi ủ rũ dưới những xó đường không buồn nhúc nhích. Rộng hơn, cái khiến cho nhiều người xanh xám như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Bao trùm lên cái xóm ngụ cư này là một không khí chết chóc: Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẫn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. Lại thêm mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoáng vào khét lẹt. Người ta nghe thấy tiếng ai khóc, tỉ tê lúc to lúc nhỏ và tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết...

Ngoài ra từ câu chuyện anh Tràng tự nhiên “nhặt” được vợ; (người đàn bà dễ dàng theo anh về làm vợ trước hết vì đói quá; bốn bát bánh đúc thay cả cho cheo cưới), đến chuyện nồi cám bà cụ Tứ nấu đãi nàng dâu...tất cả đều nói sự khủng khiếp của nạn đói này. Mọi người trong cái xóm ngụ cư khốn khó bị nạn đói đe doạ, sống trong không khí thấp thỏm lo âu.

Cuộc sống đã bị cái đói đẩy đến đường cùng tưởng chừng như không thể còn lối thoát. Nhưng “cùng tắc biến”. Kết thúc câu chuyện, nhà văn để cho người “vợ nhặt” thông báo với mẹ chồng và một tin quan Irọng: Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa. Người ta còn phá thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy. Nhân đó Tràng nghĩ đến Việt Minh và trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới...

Trong hoàn cảnh đen tối này, Tràng, nói rộng ra là quần chúng khốn khó luôn hướng về cách mạng, vì chỉ có cách mạng (mà biểu tượng là lá cờ đỏ) có thể cứu họ thoát khỏi cái chết.

    • truyện Vợ nhặt, Kim Lân đã thể hiện một quan điểm nhân đạo sâu sắc cảm động, phát hiện phẩm chất của con người lao động: dù rơi vào hoàn cảnh hết sức bi đát vẫn hướng tới cuộc sống gia đình, vẫn muốn cưu mang lẫn nhau và vẫn hi vọng tương lai.

Tràng lấy vợ khiến bà cụ Tứ lo âu, tự hỏi liệu: “nó có nuôi nổi nhau được cơn đói khát này không”. Nghĩ đến hoàn cảnh cùng quẫn của gia mình, cụ thấy tủi thân, tủi phận. Cụ ý thức rất rõ lấy vợ cho con đáng lẽ phải thế này, thế nọ, nhưng “cái khó bó cái khôn” nên chỉ còn cách nghĩ ngợi mà tủi thân, tủi phận rồi cụ thương con đẻ, cả con dâu. Cụ hiểu rõ nguyên cớ vì sao người ta " phải theo con mình. Bà lão nhìn người đàn bà lòng đầy thương xót, và nói với vợ chồng Tràng: Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”..rồi nghẹn lời không nói được nữa và nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Việc con mình “nhặt” được vợ vừa là nỗi lo, vừa là niềm vui mừng của bà lão, mừng vì con quê kệch đã có vợ. Lo vì cái đói, cái chết đang rình rập. Dẫu sao thì bà vẫn mừng nhiều hơn. Niềm vui khiến cho cái mặt bủng beo u ám của bà lão rạng rỡ hẳn lên... Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau nàv. Cụ cố giấu cái lo để động viên con trai và con dâu: “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn rồi may ra mà ông trời cho khá... biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra rồi thì con cái chúng mày về sau”...Như vậy, tâm trạng (đặc biệt là niềm hi vọng) của bà cụ Tứ đã được diễn tả một cách chân thật, góp phần tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm.

Khi Tràng có vợ, các thành viên trong gia đinh thu xếp nhà cửa cho sạch sẽ ngăn nắp hơn và nghĩ rằng thu xếp nhà cửa cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn khấm khá hơn. Có vợ, Tràng thấy yêu thương gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng, thấy một niềm vui sướng, phấn trấn đột ngột tràn ngập trong lòng... còn ngay lúc thấy Tràng dẫn người đàn bà về, những khuôn mặt hốc hác u tối của dân xóm ngụ cư bỗng dưng rạng sáng lên. Có cái gì đó lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối của họ.

Rõ ràng dù bị cái đói, cái chết rình rập đe doạ, trong không khí ảm đạm thê lương, từ Tràng đến bà cụ Tứ, đến những người xóm ngụ cư này, vẫn hướng tới tương lai, vẫn khát khao một cuộc sống gia đình. Điều này góp phần quan trọng chiến cho truyện ngắn Vợ nhặt có được giá trị nhân bản sâu sắc.

Thành công quan trọng này có thể được giải thích bằng sự hiểu biết kĩ lưỡng của nhà văn đối với nông dân. Nhưng điều cơ bản hơn có lẽ phải kể đến tấm tòng của một cây bút vốn là con đẻ của đồng ruộng. Theo cách diễn đạt của Nguyên Hồng. Kim Lân chính là nhà văn một lần đi về với “đất”, với “người”, với “thuần hậu nguyên thuỷ” của cuộc sống nông dân.

Tuy vậy xét cho cùng, những ý tưởng đúng đắn cao đẹp nêu trên sẽ không bao giờ có thể lưu lại bền lâu trong độc giả, nếu như nhà văn không tạo nên được một hình thức diễn đạt sắc nét. Bằng Vợ nhặt, Kim Lân đã thể hiện một nghệ thuật viết truyện ngắn bậc thầy.

Trước hết, tác giả đã sáng lạo được một tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn: anh Tràng làm nghề kéo xe, xấu xí, thô kệch chẳng ai thèm lấy, bỗng dưng “nhặt” được vợ một cách thật dễ dàng nhanh chóng, ở ngay giữa đường giữa chợ, nhờ mấy bát bánh đúc riêu cua.

Trong bối cảnh đói khát lúc bây giờ, Tràng có vợ quả thật là một tình thế éo le: vui, buồn lẫn lộn. Lúc này, Tràng nuôi thân mình và mẹ già còn rất khó khăn, huống hồ tự nhiên lại thêm một miệng ăn nữa, biết lấy gì nuôi nổi nhau? Nhưng Tràng xấu xí, ế vợ lại lấy được vợ dễ dàng thì không thể không xem như là điều may mắn. Tình huống oái oăm này khiến cho những người trong xóm ngụ cư, thậm chí Tràng và cả mẹ Tràng nữa cũng phải ngạc nhiên. Mọi người lo lắng cho tương lai của vợ chồng Tràng: “ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không? ”.

Hạnh phúc của cặp vợ chồng mới lấy nhau, của gia đình bà cụ Tứ cứ phải diễn ra trong âm hưởng thê thảm của sự chết chóc. Sự khốn khó còn được nhà văn đặc tả qua một bữa ăn đầu tiên đón nàng dâu mới thật tội nghiệp: Ba con ăn món cháo cám đắng chát, họ ngồi ăn mà không nỡ nhìn nhau.

Tóm lại, Kim Lân đã tạo được một tình huống giàu ý nghĩa có tác dụng làm nổi bật giá trị tư tưởng của tác phẩm. Dường như mọi chi tiết đều xoay quanh tình huống ấy, trong một kết cấu chặt chẽ.

Ngoài ra Kim Lân còn chứng tỏ khả năng phát hiện và diễn tả tâm lí nhân vật khá sắc sảo. Điều đó thể hiện quá rõ qua việc nhà văn xây dựng nhân vật bà cụ Tứ và nhân vật Tràng. Kim Lân đã sử dụng, phối hợp nhiều biện pháp : khắc hoạ tâm lí của hai nhân vật này. Lúc thì ông diễn tả tâm lí qua những biểu hiện bề ngoài (qua cử chỉ, lời nói, nét mặt… của nhân vật), lúc thì tác giả mô tả trực tiếp những ý nghĩa sâu kín trong nội tâm nhân vật. Chẳng hạn, nhân vật Tràng ở đoạn đầu tác phẩm, khi anh ta đưa vợ về nhà vào một buổi chiều ảm đạm. Tâm lí ngỡ ngàng, phấn chân của một anh nông dân quê kệch, nay bỗng “nhặt” được vợ được tác giả miêu tả qua cử chỉ và nét mặt: Hắn tủm tỉm một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh, cái mặt cứ vênh vênh tự đắc với mình.Vợ chồng Tràng đi bên nhau ngượng ngùng trước bao cặp mắt tò mò của dân xóa ngụ cư. Tràng muốn nói gì cho có vẻ thân mật tình tứ, nhưng vụng về lúng túng chẳng biết nói như thế nào. Vì e thẹn, ngượng nghịu nên cuộc đối thoại giữa Tràng và cô vợ mới thật rời rạc, toàn nhát gừng cộc lốc, không có chuyện nào đến đầu, đến đũa... Bên cạnh đó, nhà văn trực tiếp lột tả diễn biến nội tâm nhân vật: Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe doạ, quên cả những ngày tháng trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn và người đàn bà đi theo bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơm man khắp da thịt tựa hồ như có bàn tay vuốt ve trên sống lưng.

Việc nhà văn phát hiện và miêu tả sắc sảo tâm lí khiến cho một số nhân vật trong chuyện sống động có sự hấp dẫn người đọc.

Bên cạnh đó, không thể không nói đến giọng văn mộc mạc, giản dị ngôn ngữ truyện được chọn lọc kĩ lưỡng, nhiều khi rất gần với khẩu ngữ và có giá trị tạo hình. Điều ấy khiến cho thiên truyện có được sức gợi đáng kể (vẻ mặt phớn phở, dãy phố úp súp, bước chân ngật ngưỡng, người cong lớn, chạy ton ton, hềnh hệch...).

Hơn nữa, tên truyện là Vợ nhặt cũng bao hàm nhiều ý nghĩa. “Nhặt” được vợ tỏ sự rẻ rúng của thân phận con người. Thì ra nạn đói năm 1945 khủng đã biến con người thành như cái rơm cái rác có thể “nhặt” được ở bên đường. Tựa đề này đã được chọn (Cũng giống như tựa đề Đôi mắt trong truyện ngắn của Nam Cao) phù hợp với chủ đề câu chuyện, người đọc thật khó tìm thấy một tựa đề khác thay thế.

Với nội dung tư tưởng sâu sắc có giá trị nhân bản, với nghệ thuật truyện đặc sắc tác phẩm Vợ nhặt xứng đáng được xếp vào hàng truyện ngắn hay nhất viết về đề tài nông thôn.

Cùng với một số truyện ngắn sáng tác trước Cách mạng và trong cuộc kháng chiến chống Pháp, truyện ngắn Vợ nhặt góp phần khẳng định vị trí xứng đáng của nhà văn Kim Lân trong sự phát triển của văn học Việt Nam hiện đại.

 

ĐỀ 2

Phân tích nhân vật bà cụ Tứ

Không phải là nhân vật chính, lại xuất hiện ở phần cuối của tác phẩm nhưng bà cụ Tứ - mẹ của anh cu Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân đã góp phần làm cho tác phẩm sâu sắc hơn . Với tình huống anh cu Tràng “nhặt” được vợ trong những ngày đói deo dắt, Kim Lân muốn khắc hoạ số phận bi đát của người nông dân trước cách mạng tháng Tám, thể hiện sự cảm thông, sẻ chia trước khát khao hạnh phúc của những số phận khốn cùng ấy. Sau tình huống nhặt được vợ, anh cu Tràng, chị vợ và người mẹ đường như trở thành người khác. Và bà cụ Tứ người mẹ nghèo đã bộc lộ tấm lòng sâu sắc của một người mẹ suốt đời những buồn đau, lo lắng đã đè nặng lên cuộc đời bà. Bởi thế nhân vật phụ này đã tạo lên một phần không nhỏ giá trị nhân văn của tác phẩm.

Chân thật trong hình ảnh và chân thật trong từng chi tiết, Kim Lân dường như không kể mà dắt ta đến với bà cụ Tứ. Bắt đầu là cái dáng: “lọng khọng đi vào ngõ vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Có biết bao nhiêu là thân thương, trìu mến. Ta gặp lại dáng hình gầy gầy, còng còng vì sương gió cuộc đời của người đàn bà quen thuộc. Từ “lọng khọng” đầy sáng tạo và giàu sức tạo hình. Cái lẩm cẩm, chậm chạp theo nổi “phấp phỏng” trước sự đón tiếp khác thường của ông “con giai”, bà bước vào trong nhà. Khi thấy một người đàn bà đứng ngay ở đầu giường con mình, bà hết sức ngạc nhiên. Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già nua của bà. “Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường thằng con mình thế kia? Không phải cái đục mà. Ai ihế nhỉ ? Sao lại chào mình bằng u ?”. Phải, bà làm sao ngờ được giữa năm đói, nhà lại nghèo mà con bà lại dẫn không về một người vợ! Băn khoãn mãi khi hiểu ra, “bà lão cúi đầu nín lặng”, vừa “ai oán vừa sót thương cho số kiếp con mình”. Thương con để rồi tủi phận mình. “Chao ôi, người ta đựng vợ gả chồng cho con là trong lúc nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì..”. Đọc những dòng này, ta có cảm giác như trái tim người mẹ trong cái thân hình còm cõi đang rung lên đau đớn, xót xa. Việc trọng đại trong đời con, lẽ ra “làm được dăm ba mâm cơm mới phải”, nhưng " nhà mình nghèo quá”, nên điều đó chỉ nằm trong suy nghĩ, không thực hiện được. Bà cụ thương con, tủi phận rồi lại thương dâu. “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được …” Vừa mừng tủi, vừa lo lắng, bà lo nỗi lo rất chính đáng của con người đã trải qua cuộc đời cực nhọc, đớn đau: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khái này không?”. Nén nổi lo trong lòng, bà cụ động viên con tin tưởng vào tương lại “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?...". Bà nói với con dâu bằng giọng của người từng trải - vừa lo lắng, vừa thương xót; “...Năm nay thì đói to đây. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...” “ bà nghẹn lời không nói được nữa...”. Nhưng ta hiểu, người con dâu bà lúc này rất hiểu bà, thấy thân thiết gắn bó với bà, thực sự coi bà là mẹ. Và nghĩa là “ đám cưới ” đã xong. Chẳng lễ nghi, không đưa đón, tấm lòng chân thật, nhân hậu của người mẹ nghèo đã thay thế tất cả. Đến đây ta cứ liên tưởng tới mẹ chồng. Dần trong “một đám cưới”(Nam Cao). Người mẹ ấy “mở tài ăn nói”, nói rất nhiều, rất “ngọt ngào” để khoả lấp sự “không có nhiều liền”, làm “mát lòng mát ruột” cha Dần. Chao ôi, những người mẹ nông dân nghèo trước cách mạng là thế ư? Tình yêu thương con, ý thức trách nhiệm của người làm mẹ khiến họ cưới vợ cho con bằng tất cả những khả năng mình có thể, dẫu chỉ là lời nói...Nhưng nếu mẹ chồng Dần nói rất nhiều thì thì bà cụ Tứ lúc này chỉ nói rất ít. Bà khóc “Nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Những giọt nước mắt ấy đã nói lên tất cả tấm lòng chân thật của bà. Bà dành lời cho bữa cơm mừng con dâu ngày hôm sau - “toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này”, bà say sưa với các con những dự định cho tương lai...

Từ sự ngỡ ngàng đến thoáng im lặng, “hiểu ra biết bao cơ sự”, từ giọt nước mắt tủi phận nghèo, thương con dâu đến nổi lo lắng “không biết chúng có nuôi nhau sống nổi qua ihì đói không” đến niềm vui mừng, niềm tin vào tương lai..., tất cả đan xen, hiển hiện dưới ngòi bút Kim Lân. Tác giả đã đi sâu phân tích diễn biến tâm lí tinh tế của bà cụ Tứ, thể hiện một cách tài tình trong từng suy nghĩ, từng hành động, lời nói. Lỗi lo xa cho tương lai, lối nhìn người mà ngẫm đến mình, tủi phận mình hay duy tâm của người già: "...chẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết làm thế nào mà lo cho hết được? ” tưởng đọc lên ta không thể không chắc chắn đó là lời của bà cụ Tứ. Quả là không thể lẫn đi đâu được cách nói, cách nghĩ vừa lẫn thẩn, vừa hồn hậu của người mẹ già nông thôn. Tác giả vừa hoá thân vào nhân vật để phân tích diễn biến tâm lý vừa khách quan ghi lại. Đặt nhân vật trong hoàn cảnh không gian, thời gian nhất định, Kim Lân đã diễn tả sâu sắc tâm trạng nhân vật. Bà cụ Tứ ngửi “mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết thoảng vào khét lẹt” mà “nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út”, đến “cuộc đời cuộc đời cực khổ đằng dặc của mình” để rồi phấp phỏng lo lắng cho tương lai của con: “liệu chúng nó có hơn bố mẹ chúng nó trước kia không?”. Nghệ thuật “biện chứng pháp tâm hồn” đã thể hiện nhuần nhị trong từng biến thái tinh tế, phong phú của tâm lý người mẹ nghèo. Tác giả phải có sự thấu hiểu, trân trọng đặc biệt, phải có vốn sống phong phú đến mức độ nào mới có thể diễn tả một cách chân thực, tài tình đến vậy. Vợ nhặt không còn là những trang văn, đó là những trang đời - những trang đời thâm đẫm những giọt nước mắt tủi cực, xót xa, phấp phỏng nổi lo cho tương lai và rạng rỡ trong trái tim người mẹ nghèo. Chân thực mà cũng thật cảm động, hình ảnh bà cụ Tứ không chỉ giúp ta chứng kiến diễn biến tinh tế của tâm tư mà con rung cảm sâu sắc trước tâm, trước tấm chân tình tha thiết của người mẹ.

Đọc truyện, có lẽ không ai quên được cách giấu giếm đầy ngượng ngập, vụng về về những dòng nước mắt xót thương con của bà lão: “Có đèn đấy à? ừ thắp lên tí cho sáng sủa...Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ...”. Bà đã cố nén sự xúc động của mình, đã cố nuốt những giọt nước mắt chát đắng xót xa vào trái tim vốn đã chát đắng xót xa vào trong trái tim vốn đã chát đắng của một đời tủi cực. Và khi ấy, trước đôi mắt nhoà lệ của người đọc, dòng “nước mắt cứ chảy ròng ròng” sau lời bộc bạch tâm tình với con dâu của bà lão lại hiện lên rõ nét hơn bao giờ hết. Những giọt nước mắt trong suốt từ đôi mắt đục mờ. Những giọt nước mắt lấp lánh lòng vị tha cao quý của người mẹ. Những giọt nước mắt mặn mòi là muối của đất, là muối của trái tim yêu thương dạt dào như biển cả... Những giọt nước mắt lặn vào trong ấy đã hoá niềm vui chân thành trong xúc động “xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa”, trong tíu tít những dự định nào ngăn buồng cho đôi trẻ, nào mua đôi gà... Để ta sẽ thấy chính bà lão “gần đất xa trời” này lại là người nói đến tương lai nhiều hơn tất cả. Không đơn thuần chỉ là tâm lí lạc quan khỏe khoắn của người lao động, đó là cả niềm ao ước thiết tha về một ngày mai sáng sủa hơn cho con của người mẹ nghèo. Có thể bà chẳng còn sống mấy nữa. Nhưng bà sống vì con, tìm thấy ý nghĩa đời người trong sự chăm lo vun vén cho con.Và bởi vậy, những ước muốn, hy vọng đâu chỉ dành cho tuổi trẻ - nó trở nên đằm sâu, nồng thắm hơn trong tâm lòng của những người mẹ nghèo như bà cụ Tứ. Ai dám bảo bà mẹ lẩm cẩm, dớ dẩn? Ai dám cười những ước mong, dự định của bà? Cái gốc lạc quan, yêu thương không những không tàn héo đi mà ngược lại càng xanh tươi hơn trong mưa nắng cuộc đời. Tâm tính ấy làm ta xúc động, thấm thía bao điều... Tâm tính ấy khiến bữa cháo thành bữa tiệc, khiến nồi cháo “chát xít, nghẹn bứ trong miệng mà ngon ngọt trong lòng”. Người đọc cười ra nước mắt trước sự hào hứng, vui vẻ khi bà lão “lễ mễ” bưng nồi cháo cám “nghi ngút khói” lên nhà, đon đả tươi cười múc cho con mà bảo: “Cám đây mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem”. Phải, cái nồi cháo cám hèn hạ đành rồi, nhưng tấm lòng người mẹ quê ngẫm lại không đáng thương, đáng quý hay sao? Dường như bà cố gắng xua đi cái không khí ảm đạm, cố gắng vượt lên hoàn cảnh bằng sự tươi tỉnh động viên con. Bên trong cái vẻ tươi tỉnh ấy, ta biết lòng người mẹ đang thổn thức. Lòng người đọc cũng dâng lên bao xót xa... Tội nghiệp thay niềm vui của bà lão - cái niềm vui không cất cánh lên được. Bởi, vẫn còn đó bát cháo cám, vẫn còn đó tiếng trống thúc thuế dồn dập khiến niềm vui không thể trọn vẹn... “Bà không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc” còn người đọc thì nhìn thấy rõ những giọt nước mắt trong lòng bà, thấy rõ những giọt nước mắt của Kim Lân khi viết những dòng này. Bằng tất cả sự nâng niu, trân trọng, Kim Lân đã để trái tim đập cùng một nhịp với trái lim người mẹ nông dân nghèo...

Qua Vợ nhặt, Kim Lân đã xây dựng thành công hình ảnh người mẹ nghèo trong trận đói khủng khiếp 1945. Người mẹ nghèo tiền bạc nhưng giàu lòng yêu thương và hết mình vì con - người mẹ Việt Nam truyền thống. Đằng sau bà cụ Tứ, ta thấy thấp thoáng những Lão Hạc, chị Dậu, mẹ Dần... những người sống tận lòng cho những người thân yêu của họ.

 

                                                                            ĐỀ 3

Sự sống đối mặt với cái chết trong Vợ nhặt của Kim Lân

  1. Cái hoạ chết đói năm 1945 quả là khủng khiếp. Không chỉ đói xóm đói làng mà đói nửa nước. Từ bắc Trung Bộ trở ra, từ thu đông 1944 đến xuân hè 1945 hơn hai triệu người nằm xuống.

Kim Lân chọn bối cảnh ấy cho truyện Vợ nhặt. Không nhiều dòng miêu tả trực tiếp nhưng là những dòng rất hiếm trong văn chương từ đó đến nay. Cái nghèo ở Ngô Tất Tố, cái đói ở Nam Cao, ta thương cảm muốn rơi nước mắt. Cái đói và cái chết ở Kim Lân khiến ta khiếp sợ, rụng rời.

Nó hiện lên thành màu: xanh xám của da người sắp chết, đen kịt đầy trời của các đàn quạ. Thành mùi: gây gây của xác người, khét lẹt của những gì đốt lên ở nhà có người chết. Thành tiếng: thê thiết của quạ trên những cây gạo, hờ khóc gió đưa vào tận nhà, văng vẳng như từ dưới âm ly. Cuộc sống khắp nơi, cuộc sống ở xóm ngụ cư đều bị bao vây trong những màu, những mùi, những tiếng thê lương ấy. Chưa chết thì ủ rũ, hốc hác, thở than tuyệt vọng. Đến như Tràng to lớn lưng rộng như lưng gấu cũng chỉ đi từng bước một, đầu chúi về đằng trước như bị những lo lắng đè hẳn người xuống. Cô con gái nhanh nhẩu, táo tợn, mới mấy hôm đã tả tơi, gầy sọp, xám xịt. Bà cụ Tứ, mẹ Tràng, lại là hiện thân đầy đủ nhất cùa cái đói, cái chết truyền kiếp của nông thôn. Không gian toàn điêu tàn, rữa nát, cái chết lan tràn nơi nơi. Cái sống chỉ còn thoi thóp, leo lét.

  1. Vậy mà mội chuyện trái đời đã xảy ra: chuyện lấy vợ lấy chồng. Chẳng theo lễ nghi nào cả. Cô gái đói lâu ngày, Tràng mời, cô ăn mấy bát bánh đúc, Tràng bảo có về với thì cùng về và cô theo. Hoàn cảnh là ngược đời: lấy vợ lấy chồng ít ra là lúc đời sống đang bình thường, lúc ăn nên làm nổi như mẹ Tràng chứ đâu trong con đói chết này, bản thân mình cũng chưa chắc qua khỏi. Mà lấy vợ lấy chồng là việc đại sự, việc sinh con đẻ cái, nối tiếp dòng họ, lưu truyền sự sống. Việc trọng đại cho đời người ấy lại xảy ra nhanh chóng ngoài sự tưởng tượng, có vẻ như không thực. Đời có đám cưới chạy tang, cũng rất nhanh. Đây cũng không phải chạy chết. Nhưng rõ ràng là thách thức cái đói cái chết. Cho nên cái đói cái chết chẳng buông tha. Đường về nhà của họ như đi qua cõi âm, thấp thoáng theo họ là dật dờ những bóng ma, đón rước họ là bầy quạ và tiếng quạ tối sầm; vang vào tận nhà, len vào giấc ngủ của họ là tiếng hờ khóc, tỉ tê, càng khuya càng rõ từ nhà có người chết; về tới nhà thì cảnh nhà vắng teo, rúm ró, hoang tàn, héo hắt, bữa cơm chỉ cháo loãng muối hột, cám khuấy.

Cái đói cái chết bám theo quyết liệt với tất cả sức huỷ diệt của nó. Tưởng như thế, đôi vợ chồng này chỉ đưa nhau đến chỗ chết. Nhưng không, họ vẫn trụ được, hơn thế, lại vượt lên chiến thắng với một sức sống mãnh liệt phi thường và sức sống ấy đã tạo ra một sự biến đổi kỳ diệu. Tất cả đều khác. Trẻ con khác, người lớn khác. Tràng khác, bà cụ cũng khác. Còn cô gái? Chính tác giả đã gửi sức sống ấy vào cô gái. Nó toả ra từ cô, cô như được trao chiếc đũa thần để làm nên mọi thay đổi đột ngột, lạ lùng, làm nổi bật lên trên cái phông âm u rung rợn của cái đói, cái chết kia, cái sáng tươi, cái ước mơ đổi thay số phận cho mọi người, cho mình. Cô là vợ nhặt nhưng lại là một hào quang, một luồng khí ấm tiêu biểu cho sự sống trường cửu, mãnh liệt và mầu nhiệm.

  1. Vợ nhặt ngẫm kĩ lại là một cụm từ nhiều ý vị đau thương mà ý nghĩa. Nào phải đó là cái tên, nhưng nó vẫn chỉ cô gái ấy. Chỉ có chút bất thường và kỳ lạ. Vợ theo nghe đã buồn, vì theo không, chả cưới xin và cũng chả ai chấp nhận. Đây lại là vợ nhặt, chẳng khác gì một đồ vật đánh rơi hoặc vứt đi nay nhặt được. Chẳng là Dậu, là Tý nào cả. Chỉ là cô ả, rồi người đàn bà, nó cộc lốc. Kể ra cái đói, bỏ xứ tha phương cầu thực, biết đâu ngày mai không còng queo cái xác bên đường, thì tên tuổi làm gì. Nhưng cái vô danh ấy đâu phải là vô nghĩa. Để chỉ sức sống, sự sống thì cần gì tên với họ? Chỉ cần biết đó là một người đàn bà, một phụ nữ. Không ngờ ẩn trong cái chữ thảm thê vợ nhặt ấy lại là một sức mạnh truyền thống có độ dày hàng nghìn năm. Nhặt thì không ra gì, nhưng vợ thì vinh dự. Chữ an trong Hán tự có chữ nữ, nghĩa là đàn bà vào nhà thì yên lành, hạnh phúc. Cho nên cái danh xưng ấy không phải dễ dàng hiện ra ngay: úp mở bằng nói lái của trẻ con, ước đoán ở hàng xóm, rồi năm rè, bảy rụt mượn chai dầu hôi làm cớ. Tràng mới dám đọc nó ra: vợ mới vợ miếc.

Chính từ cái cách người vợ ấy, cô gái đã dần dần lột xác. Giữa đám em cùng lứa, cô ngang ngửa, thoải mái, cong cớn rồi sầm sầm, sưng sỉa, kể cả ăn xong một hơi bốn bát bánh đúc chẳng chút e dè, cô cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, quê và thô rất chi là tự nhiên. Vậy mà sau khi nghe Tràng có về với tớ thì cùng về, cô về thật, thì từ cái ngang ngửa, hồn nhiên nhưng đã biến đổi theo từng bước đi trên đường về nhà Tràng.

Đùa chơi quả có khác. Đi theo cùng về, chứa rõ sẽ làm gì nhưng là nghiêm trang rồi, nghiêm trọng nữa. Đi sau ba bôn bước, đầu hơi cúi, nón che khuôn mặt. Không nhất thiết vì đã có người dòm ngó. Chỉ là đối diện với lòng mình: chuyện số phận chứ chẳng phải chơi. Không nước mắt nhưng cứ rón rén, e thẹn đích như cô dâu khi bước khỏi nhà mẹ, ngoan ngoãn, dễ thương, rất nữ tính. Đôi ba quãng đường nữa đã thấy cô đàng hoàng thể hiện cái chức năng an bài của người vợ. Cô chế diễu (bé lắm đấy), mắng (hoang nó vừa vừa chứ), rồi dẹp hết e thẹn lẫn ngại ngùng, cô văng ngay khỉ gió, phát đánh đét vào lưng Tràng… ấy là cô đã đặt chân vào con đường làm người vợ. Thế nhưng, bước vào nhà, cô cứ ngồi mớm ở mép giường, tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần. Thì ra đến phút này cô mới nghĩ kĩ về tình cảnh mình. Tới đây là tới chỗ quyết định cuối cùng cho thân phận cô. Đành là đói nên cô phải tìm nơi nương tựa, nhưng liệu đây có phải là chỗ cô mong đợi? Bà cụ chưa về. biết ý bà ra sao. Cái thế ngồi rụt rè, chông chênh như chính là cái thế phân vân của lòng cô. Chuyện thành vợ bỗng dưng của cô đã bất đầu nhưng sau cứ như không thực. Làm vợ, làm dâu, mà như thế nào sao? Lấy chồng, hạnh phúc lớn nhất trong đời con gái mà lủi thủi, trơ trọi như thế này? Thảm thương, buồn tủi cho mình biết bao! Thật là ngổn ngang trăm mối, cô bần thần chưa biết tính sao. May bà mẹ Tràng tỏ ra thương cảm, an ủi, khuyên lơn nên cô cảm thấy yên lòng. Và sau một đêm làm vợ, sáng ra cô đã trở thành một con người hoàn toàn khác hẳn, cô đã là một người vợ đảm đang, siêng năng, quán xuyến mọi việc, đem lại một sinh khí mới cho gia đình.

  1. Cô vợ ấy, nàng dâu ấy không chỉ biến đổi chỉ mình mình mà quan trọng hơn, và sâu sắc hơn là như đã thổi luồng gió lành đánh thức dậy sức nóng cho mọi người, mọi nơi, đem lại sự sống ngay trong cái đói, cái chết.

Cô vừa xuất hiện bên cạnh Tràng ở đầu xóm, cả xóm như sống đậy. Nhà cửa lúp xúp, tối om bỗng rộn ràng lên. Trẻ con ủ rũ không buồn nhúc nhích đã thoắt chạy theo Tràng và linh ranh như thế nào lại reo lên thích thú chông vợ hài người lớn kéo nhau ra cửa, mặt mày đang u tối bỗng rạng rỡ hẳn lên, kẻ dò đoánkẻ than thở và tỏ lòng thương cảm, xôn xao trước cảnh người đàn bà thẹn thẹn hay đáo để.

Nói gì Tràng! Bắt đầu là đùa vui lối nông dân trẻ trung. Đến khi thấy cô gái sau mấy hôm đã xám xịt, bay hết màu sống, anh mời, cô ăn liền liền, không kịp thở như đói đã lâu, anh nửa đùa nửa thật lửng lơ có về với thì cùng về, cô theo anh hơi chợn nhưng chặc lưỡi: kệ. Mọi sự tình bắt đầu từ cái kệ này. Tác giả bảo “Trong lòng Tràng bấy giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà”... Đúng thế. Trước hết là một suy nghĩ nghiêm túc rất nhân tình từ đáy sâu lòng anh. Người đàn bà ấy đã cuốn anh từ đùa vui chuyển qua tình thật, tiếp một sức sống mới cho lòng anh. Còn tận trong bản chất trai trẻ chưa có nổi vợ như anh, làm sao không vô thưc âm ỉ một xúi giục cũng rất người? Thế là quên khuấy những gì là lo lắng, là ê chề, tăm tối, quên cả ngày tháng trước mắt. Tràng ta tủm tỉm cười (trong truyện đếm được đến 10 lần, mỗi lần cười mỗi Khác), có vẻ phớn phở khác thường, mắt sáng lên lấp lánh. Và cũng như thường bên cạnh một người đàn bà mà mình biết là người của mình, anh cảm thấy cái gì đó lạ lắm, nó mơn man khắp da thịt, nó như vuốt nhẹ trên sống lưng. Anh thấy cần bày tỏ lòng mình bằng một cử chỉ, một câu nói thân thương nhưng thấy lúng túng chẳng làm được gì. Cái can đảm lớn lao của anh là giục cô vợ đi ngủ và bị mắng yêu là dơ! Biến đổi sâu sắc nhất ở anh là sau đêm làm chồng anh thấy lạ cả với mình. Như có gì nhập vào người, anh nghe êm ái, lửng lơ như ở trong giấc mơ đi ra. Anh xăm xăm chạy ra sân, muốn làm một việc gì cho xứng với tư cách người đàn ông đã có vợ... như có một sức sống mới mẻ, rạo rực sôi nổi trong mình.

Bà mẹ anh cũng như có nước cam lồ rưới vào, hoá khác hẳn. Bà như trẻ lại, vỗ về con dâu, ngọt ngào một u hai u, một con hay con, rồi tíu tít những dự định, ngăn riêng buồng cho đôi vợ chồng, nào mua gà nuôi, nào lúi húi giẫy cỏ sân. nào đon đả tươi cười với nồi cám khuấy mà bà gọi là chè đem ra đãi vợ chồng mới vào cuối bữa cơm tân hôn chỉ cháo loãng và muối hột bày trên cái mẹt rách, một bữa cơm không gì thê thảm hơn. Ôi, tấm lòng của những bà mẹ! Sao nó bao la thế. Chỉ có mấy lời phải chăng, thực tế từng trải cả một đời với giọng nói đẫm tình thương đem bày tỏ với cô gái là thay thế tất cả mọi lễ nghi, giải toả hết mọi bần thần mặc cảm của cô, là đã mẹ con, nàng dâu mẹ chồng hoà hợp, đằm thắm nghĩa tình. Bữa cháo đãtihành bữa tiệc. Chát xít, nghẹn ứ trong miệng mà ngon ngọt trong lòng.

  1. Buổi sáng hôm ấy như ngày Tết, ngày hội ở gian lều tồi tàn, rúm ró của mẹ con Tràng. Chẳng có bà Tiên nào đến đó. Chỉ có mặt một cô dâu, một người vợ mới. Vậy mà như phép thần, mọi vật từ cảnh sân, ang nước, rác rưởi, quần áo, tất cả đều đâu ra đó, sạch sẽ, ngăn nắp, quang đãng, ánh sáng ban mai chan tiếng chổi quét sân bỗng dưng cũng thành điệu êm tai. Từ con người đàn bà nhập vào gia đình, sự sống lan toả như nắng bình minh, ấm áp., hoà hợp, dâng đầy ước vọng, niềm tin. Chưa phải nói tới những đoàn biểu tình có cây cờ đỏ dẫn trước báo sự xoay chuyển tất cả mọi thân phận, mặc kệ tiếng quạ, vẫn cứ rờn rợn từng hồi, mặc kệ tiếng trống thúc thuế dồn dập, gay gắt bên ngoài.

Sự sống đã thách thức, đối mặt với cái chết cái đói và đã đàng hoàng chứng tỏ là bất diệt, lực lưỡng và mầu nhiệm. Chỗ sâu của dụng ý người viết là đó. Mở đầu là tôi sầm. kết thúc là bừng bừng thắm đỏ, nén sâu xúc động một tí tách hóm hỉnh đằng khác trong giọng điệu, đảo trước ra sau cho lạ lùng câu chuyện ở kết câu, lặng lẽ gài cô gái vào vai kỳ diệu... nghĩ cho cùng đều nhằm tô đậm dụng ý tư tưởng nghệ thuật ấy.

 

Bài viết gợi ý: