Đề bài liên hệ: Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Tràng khi gặp thị và quyết định đưa thị về làm vợ (Vợ nhặt- Kim Lân). Từ đó liên hệ với nhân vật Chí Phèo khi gặp thị Nở (Chí Phèo – Nam Cao) để thấy được ước mơ tốt đẹp của người nông dân nghèo trong tác phẩm văn học.
Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận
Mở bài giới thiêụ được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài khái quát được vấn đề.
Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Tràng khi gặp thị và quyết định đưa thị về làm vợ (Vợ nhặt- Kim Lân). Từ đó liên hệ với nhân vật Chí Phèo khi gặp thị Nở (Chí Phèo – Nam Cao) để thấy được ước mơ tốt đẹp của người nông dân nghèo trong tác phẩm văn học.
Triển khai vấn đề nghị luận
Vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng.
* Giới thiêu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm, yêu cầu của đề bài.
* Cảm nhận về nhân vật Tràng
– Xuất thân của Tràng: Dân ngụ cư, làm nghề đẩy xe bò, sống cùng với mẹ già
với cuộc sống nghèo khó.
– Ngoại hình: Tràng có ngoại hình xấu xí và thô kệch, là một người nông dân bình dị, nghèo khổ lại xấu xí. Trong nạn đói khủng khiếp Tràng lại lấy được vợ mà nói cho chính xác hơn thì Tràng “nhặt được vợ”.
Hạnh phúc đến quá tình cờ khiến Tràng choáng váng. “Mới đầu anh chàng cũng chợn” nhưng ngay sau đó lại “tặc lưỡi một cái: – Chật, kệ!”. Tấm lòng thương người và sâu xa bên trong là niềm khao khát hạnh phúc, đã khiến Tràng dám liều lĩnh thách thức với cái đói (dẫn người đàn bà về nhà, mua dầu thắp…).
– Kim Lân đã diễn tả rất hay tâm lí của Tràng trước cái hạnh phúc tình cờ nhặt được.
+ Đoạn văn miêu tả cảnh Tràng đưa vợ về nhà đã thể hiện chân thực tâm trạng của một anh chàng dở hơi mà bỗng nhiên có vợ. Niềm hạnh phúc bộc lỗ rõ nét mặt và cử chỉ của nhân vật: “Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”; thấy bọn trẻ con chạy ra đón, “Tràng vội vàng nghiêm nét mặt, lắc đầu ra hiệu không bằng lòng” vì sợ chúng đùa dai như mọi khi; biết mọi người trong xóm đang chăm chú nhìn mình, hắn thích ý và “cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình”; lúc chỉ có hai người trên quãng đường vắng, “hắn định nói với thị một câu rõ tình tứ mà chẳng biết nói thế nào. Hắn cứ lúng ta lúng túng, tay nọ xoa xoa vào vai kia đi bên bạnh người đàn bà”. Vì e thẹn, ngượng nghịu, nên cuộc đối thoại giữa Tràng và người đàn bà thật rời rạc, toàn những lời nhát gừng, cộc lốc. Hạnh phúc đến quá bất ngờ, đến nỗi hai người đi bên nhau mà vẫn chưa kịp hết xa lạ với nhau. Xúc động nhất là đoạn văn miêu tả trực tiếp những cảm giác trong lòng Tràng: “Trong một lúc Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, nên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy. Nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng”. Cái cảm giác mà Tràng không biết gọi là gì ấy, chính là hạnh phúc.
+ Cho đến sáng hôm sau, lúc hai người đã thực sự là vợ chồng rồi, Tràng vẫn còn ngỡ ngàng: “Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngơ ngàng như không phải”.
+ Sức mạnh kì diệu của hạnh phúc đã làm thay đổi hẳn con người Tràng. Không còn cái dáng đi “từng bước mệt mỏi” bây giờ đã cái dáng đi đàng hoàng và tỉnh táo: “Hắn chắp hai tay sau lừng lững thững bước ra sân”, và sau đó lại cái dáng “xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại ngôi nhà”. Sự thay đổi của dáng vẻ bên ngoài nói lên sự thay đổi lớn lao của tâm hồn. Nhìn cảnh người mẹ đang dọn vườn, người vợ đang quét sân, Tràng vô cùng xúc động. “Cảnh tượng ấy thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này”. Người đàn ông dở hơi ấy đến lú này đã trở nên tỉnh táo “nên người”, có ý thức sâu sắc về tình cảm và trách nhiệm gia đình, đồng thời cũng biết nghĩ đến tương lai.
* Liên hệ với nhân vật Chí Phèo khi gặp thị Nở (Chí Phèo – Nam Cao) để thấy được ước mơ tốt đẹp của người nông dân nghèo trong tác phẩm văn học.
– Giống nhau: Cả hai nhận vật Tràng và Chí Phèo đều là những người nông dân nghèo, có ước mơ bình dị và khát vọng tốt đẹp ở tương lai.
+ Tràng: Niềm khát khao tổ ấm gia đình, cũng là khát khao hạnh phúc của nhân vật Tràng là khát khao mãnh liệt dẫu rất thô sơ, chất phác, hồn nhiên. Khát vọng đó đã vượt qua cả những nỗi lo âu, sợ hãi và toan tính trước nạn đói và trước cái chết.
+ Chí Phèo: Cứ tưởng Chí Phèo sống mãi kiếp thú vật rồi kết thúc cuộc đời bằng cách vùi xác tại một bờ bụi nào đó. Nhưng không, một bước ngoặt lớn đã diễn ra trong cuộc đời Chí. Kể từ khi gặp thị Nở, Chí Phèo đã thức tỉnh. Đầu tiên là tỉnh rượu rồi mới đến tỉnh ngộ. Sau đó là niềm hy vọng : Ước mơ lương thiện trở về, Chí thấy thèm lương thiện và muốn làm hòa với mọi người… Chí đặt hy vọng lớn vào thị Nở: “thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được… Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”. Chí hình dung về tương lai tươi đẹp khi chung sống cùng với thị Nở. Rồi Chí ngỏ lời với thị.
– Khác nhau :
+ Cuộc đời của Tràng tiêu biểu cho số phận của người dân nghèo trước cách mạng tháng Tám. Khi chưa có nạn đói thì nghèo đến nỗi không lấy nổi vợ, trong nạn đói lại lấy vợ, niềm hạnh phúc đan xen với bất hạnh.
+ Chí Phèo điển hình cho tầng lớp nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa không có lối thoát trong xã hội cũ, cho số phận bi thảm của những con người khổ nghèo, tăm tối dưới ách áp bức bóc lột tàn bạo, xảo quyệt của giai cấp thống trị ở nước ta trước Cách mạng tháng Tám.
* Ước mơ tốt đẹp của người nông dân nghèo trong tác phẩm văn học.
Sự sâu sắc của các tác giả khi thể hiện niềm khát khao hạnh phúc của người nông dân khốn khổ là ở chỗ nhá văn đã cho ta thấy: người dân lao động, dẫu đứng trước cái chết hay rơi vào bi kịch vẫn luôn nghĩ tới cuộc sống và họ không ngừng tìm kiếm hạnh phúc. Đó là giá trị nhân bản sâu sắc nhất của tác phậm văn học.
Chính tả, dùng từ, đặt câu
Đảm bảo chuẩn chı́nh tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp tiếng Viêt.
Sáng tạo
Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.
Xem thêm: ĐỀ THI THỬ THPT QUỐC GIA NGỮ VĂN :Dạng đề liên hệ tác phẩm 12-11, CHÍ PHÈO ,
VỢ NHẶT

Bài viết gợi ý: