Từ xa xưa, con người đã biết dùng thơ ca để thể hiện những cảm xúc mạnh mẽ trong tâm hồn. Thơ đến với chúng ta bằng sự đồng điệu của những tấm lòng, bằng mối giao cảm của tiếng nói tri âm, tri kỉ. Thơ là “chuyện đồng điệu” là “tiếng nói đồng ý, đồng tình”, về việc định nghĩa thư Lê Quý Đồn đã có những nhận định về thơ khá sắc sảo: “Thơ phát khởi từ trong lòng người ta”, còn Ngô Thì Nhậm lại nhấn mạnh: “ Hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần”.
Thơ là phương thức biểu hiện trữ tình. Thơ được hình thành nhờ mối rung cảm thầm kín giữa con người và cuộc sống. Trong dòng chảy của thơ, con người được đắm chìm mình trong tình cảm cửa nhà thơ và của chính mình. Thơ thấm vào lòng người, bởi những cảm xúc trực liếp và nhiều mối liên tưởng kín đáo, bằng ý tứ sâu xa, sức quyến rũ của tiết tấu và thanh điệu. Tất cả những yếu tố ấy ùa vào lòng người đọc, xoá đi hay khắc sâu thêm những tình cảm, tạo nên ấn tượng khó phai mờ. Con người khi đến với thơ tâm hồn sẽ được thanh lọc để trong sáng và cao thượng hơn.
Lê Quý Đôn nói “Thơ phát khởi từ trong lòng người ta”. Nghĩa là thơ phải xuất phái từ tâm hồn. tình cảm của nhà thơ. Rõ ràng thơ khác với thể loại tự sự. Nhà thơ tiếp xúc và phản ánh cuộc sống không phải hàng những chi tiết, bề bộn của hiện thực mà chủ yếu là để bộc lộ tình cảm cùa mình trước cuộc sống. Thơ có tiếng nói riêng, nó như những lời tâm sự làm sống dậy trong lòng ta những kỉ niệm vui buồn của quá khứ xa xôi. Thơ chính là cuộc sống, là sự phản ánh cuốc sống một cách cao đẹp. Cái đẹp của sự sống luôn luôn biến động, vì vậy thơ sinh ra bởi con người nặng tình với cuộc sống. Có tài năng chưa đủ, nhà thơ còn phải yêu cuộc sống và tha thiết với thơ, thơ mới chân thành và rung động lòng người. Thư rất gần gũi nhưng cũng rất cao xa, cao quý và thoát tục.
“Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi động chạm tới cuộc sống” (Nguyễn Đình Thi). Đúng như vậy, muốn có thơ, nhà thơ phải chớp được những giây phút xuất thần. Khi đứng trước cảnh vật thiên nhiên, cảnh đời éo le, nỗi đau của con người, nỗi đau thế sự, nếu chỉ có phát ngôn hời hợi ihì không thể thành thơ. Một yếu tố không thể thiếu được đó là sự rung động của trái tím tạo thành điểm giao thoa giữa nội tâm và ngoại cảm. Khi ấy ngòi bút mới có thể xúc động hồn thơ. Thiếu rung động, thơ chi là sự ghép vần, ghép chừ, chỉ còn là cái xác không hồn.
Thơ ca sinh ra từ tâm hồn, từ trong lòng người ta, và trở lại làm cho con người ngạc nhiên vì nó. Phải trả thơ về với cuộc sống sau khi đã chắt lọc từ cuộc sống. Phải nâng thơ lên, khôn” chỉ là sự sống mà phải là thơ. Cho nên thơ không chỉ là sự im lặng giữa các từ, nó là tiếng lòng, là sự tỉnh táo trong cảm xúc vừa trữ tình, vừa suy tưởng để rồi trở thành người bạn trung thành trên mọi chặng đường đời.
Trong quá trình sáng tạo thơ, rung động và cảm xúc là điểm lựa. Từ đó tình cảm trong thơ phải mạnh mẽ và sâu lắng đến tận cùng. Trên thực tế nhiều nhà thơ đã xuất thần trên ngọn bút nhờ cái giây phút xuất thần ấy. Hoàng cầm khi nghe tin giặc đốt phá quê nhà, một vùng quê với bao kỉ niệm, đã viết câu thơ “Sao xót xa như rụng bàn tay”. Quê hương đau như thân thể mình đau.
Có lần Chế Lan Viên tâm sự “Thở muôn làm cho người ta khóc, trước liên mình phải khóc, muốn làm cho người ta cười, trước hết mình phải cười”. Nghĩa là người làm thơ phải cảm xúc gấp nhiều lần người thường. Cho nên thơ là sản phẩm của một tâm hồn cụ thể mang những điều kì diệu vào bí ẩn của tâm hồn ấy. Thơ là con đẻ của cảm xúc, của trạng thái tâm hồn. Mỗi tâm hồn là vương quốc riêng và một chút rung động đều có thể trở thành thơ. Nhưng không phải cảm xúc nào cũng thành thơ. Trong mọi yếu tố làm nên chất thơ, tình cảm là yếu tố quan trọng, nó là cái gốc, cái cội của thơ. Neười làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt thể hiện sự nồng cháy ở trong lòng. Có như vậy Chế Lan Viên mới viết:
Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt,
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết,
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, dòng sông.
Văn học nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng có đối tượng phản ánh là con người và xã hội. Nhưng cuộc sống và con người trong thơ đã được phản chiếu qua một tâm hồn cụ thể. Vi thế thơ là nỗi niềm, là tấm lòng không phá của riêng nhà thơ mà trái tìm nhà thơ phải đập cùng một nhịp đập với ưái tin quần chúng và cả cộng đồng. Nhà thơ phải biết kết hợp tình cảm và lí trí thì mới đem đến cho thơ những cảm xúc sâu sắc. Khi nói về truyền thống của dân tộc nếu không “Khởi phái từ trong lòng”, nếu không bắt đầu từ tận cùng của cản xúc thì làm sao Nguvễn Đình Thi viết được những câu thơ.
Nước chúng ta,
Nước những người chưa ban giờ khuất,
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đứt,
Những buổi ngày xưa vọng nói về.
Cảm xúc tạo nên hình tượng lí trí hoà vào tình cảm khiến cho hình tượng thơ cổ sự hài hoà của tình cảm và lí trí.
Cuộc sống vốn bề bộn và phức tạp, thơ cũng phải đa dạng và phong phú. Người nghệ sĩ phải đi lừ trái tim mình để sáng tạo nghệ thuật. Thơ là tiếng nói đi từ trái tim nhà thơ đến trái tim người đọc. Người đọc thơ muốn tìm thây cảm xúc, lình cảm, tâm trạng của mình trong thơ. Có những bài thơ không cần phân tích, chỉ đọc một cách âm thầm mà người đọc như bị chao đảo:
Đưa người ra không đưa qua sông,
Sao có tiếng sóng ở trong lòng.
Trở lại ý kiến của Lê Quý Đôn, ta thấy ngoài cái ý nghĩa tình cảm là gốc của thơ, Lê Quý Đôn muốn nhấn mạnh thơ hay là thơ có cảm xúc bắt đầu từ cái tâm. Cảm xúc không hướng tới cái tâm thì thơ chỉ là những lòi giáo huấn suông và máy móc. Khi Ngô Thì Nhậm nói “ Hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần” cũng có nghĩa là thơ phải xuất phát từ tấm lòng nhân hậu của nhà thơ. Phải yêu thương và trân trọng con người và cuộc sống. Thơ muốn hay tình cảm phải bùng cháy, đó là bản chất của thơ, nguyên tắc của thơ. Chỉ khi nào tình cảm tràn ra thì chữ nghĩa trong thơ mới hàm súc và chắt lọc.
Lịch sử nền thi ca nước ta từ cổ điển đến hiện đại đã chứng minh cho điều lí giải trên đây. Nếu không cỏ cái tâm thì Nguyễn Du không viết được câu thơ:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Và nếu không có cái tình thì Nguyễn Đinh Chiểu không thể viết:
Chớ bao nhiêu đạo thuyền không thẳm
Dâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
Sau này Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Đình Thi… đều là những thi sĩ chắt thơ từ cõi lòng, từ trái tim biết nhìn đời, đau đời và biết nâng cuộc đời lên trong những trang thơ. Đồng nghĩa với những ý kiến trên, nhà thơ Chính Hữu đã cho rằng “ Chì có thể có những bài thơ hay nếu mỗi câu có dính máu của mình trong đó”.
Có thể nói những ý kiến của Lê Quý Đôn và Ngô Thì Nhậm đến nay vẫn có giá trị không chỉ về mặt lí luận mà cả về sáng tác. Đó là những ý kiến sâu sắc đóng góp cho nền thi ca Việt Nam. Nó có giá trị như kim chỉ nam giúp các nhà thơ của nhiều thế hệ không đi lệch hướng như con tàu không đi chệch đường ray của mình.
Phạm Sao Mai PTTH Chuyên Lam Sơn – Thanh Hoá