NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
- Nguyễn Tuân -
* KHÁI QUÁT
1. Tác giả
- Nguyễn Tuân là tác giả lớn của văn học Việt Nam hiện đại với những thành tựu xuất sắc trong cả hai giai đoạn sáng tác trước và sau 1945
- Sáng tác của Nguyễn Tuân mang phong cách riêng độc đáo trong đó nổi bật chất tài hoa, uyênn bác. Là một nghệ sỹ suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân thường khám phá thế giới ở phương diện văn hóa, thẩm mỹ, khám phá con người ở vẻ đẹp tài hoa nghệ sỹ.
2. Tác phẩm
2.1. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:
- “Người lái đò sông Đà” là bài tùy bút xuất sắc của Nguyễn Tuân được in trong tập Sông Đà - 1960
- Nội dung và hoàn cảnh sáng tác: Sông Đà là thành quả chuyến đi gian khổ và hào hùng của Nguyễn Tuân lên miền đất Tây Bắc xa xôi và rộng lớn trong những năm 58-60. Chuyến đi không chỉ nhằm thỏa mãn niềm khát khao xê dịch, mà chủ yếu để tìm kiếm “chất vàng” trong vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc, phát hiện “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của tâm hồn con người Tây Bắc trong cuộc sống lao động hàng ngày của họ. Tác phẩm đã thể hiện những nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
2.2. Lời đề từ:
- Câu thơ “đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” (một nhà thơ Ba Lan Wladyslaw Bromewski): Nhà văn đã mượn câu thơ mang cấu trúc cảm thán để bộc lộc những cảm xúc đang trào dâng mãnh liệt trong lòng. “Tiếng hát trên dòng sông” có thể là tiếng hát của những người “chèo đò kéo thuyền, vượt thác” (Nguyễn Khoa Điềm), tiếng hát thể hiện tâm hồn lạc quan yêu đời yêu thiên nhiên và cuộc sống lao động của con người Tây Bắc; cũng có thể hiểu là tiếng hát say mê, phấn khích, đầy ngưỡng mộ của nhà văn trước vẻ đẹp của dòng sông. Lời đề từ do đó đã thể hiện cảm hứng chủ đạo của tùy bút, đó là tình yêu đắm say tha thiết của nhà văn với thiên nhiên và con người Tây Bắc.
- Hai câu thơ của nhà thơ Nguyễn Quang Bích (văn học trung đại): “Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu”: Câu thơ chữ Hán đã đề cập đến một nét độc đáo của sông Đà khi mọi dòng sông đều chảy về phương Đông, chỉ có sông Đà một mình chảy theo hướng Bắc - đó cũng là sự độc đáo khơi gợi hứng thú cho nhà văn kiếm tìm, khám phá. Nhưng khi mượn câu thơ xưa làm lời đề từ, có lẽ tác giả Người lái đò sông Đà không chỉ muốn nhắc đến sự ngược ngạo của dòng sông mà chủ yếu để khẳng định cá tính độc đáo của mình trong dòng sông văn chương. Đó là văn phong đầy sáng tạo của một nhà văn có ý thức sâu sắc về cái “tôi” cá nhân, về bản ngã, về cá tính riêng trong sáng tạo nghệ thuật.
Với hai lời đề từ, Nhà văn Nguyễn Tuân đã cho thấy đồng thời cả cảm hứng sáng tác và khí phách nghệ thuật độc đáo của mình trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”.
ĐỀ 1
Phân tích hình tượng dòng sông Đà trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” để làm rõ những nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân.
I/ Mở bài:
- Tác giả, tác phẩm
- Thông qua việc khắc họa hình ảnh của dòng sông Đà, tùy bút đã phát hiện chất “vàng” trong vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc, qua đó thể hiện những nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
II/ Thân bài:
Qua ngòi bút của một nhà văn luôn khám phá thế giới ở phương diện văn hóa, thẩm mỹ, trong tùy bút Người lái đò sông Đà, sông Đà đã hiện lên như một công trình mỹ thuật tuyệt vời của tạo hóa với hai vẻ đẹp đầy ấn tượng: vẻ đẹp của một dòng sông hùng vĩ với những sắc thái dữ dằn hung bạo và vẻ đẹp của một dòng sông đằm thắm, trữ tình.
1. Dòng sông hung bạo:
Là nhà văn của những cảm giác mãnh liệt, luôn có hứng thú đặc biệt với núi cao, rừng thiêng, gió bão và thác ghềnh dữ dội, ngòi bút của Nguyễn Tuân tung hoành sảng khoái giữa những dòng thác ngôn từ, nhà văn tài hoa đã buộc ngôn từ dựng lên những ghềnh thác, buộc nhịp điệu tạo nên những sóng gió, dùng những thao tác so sánh, nhân hóa dẫn người đọc đến núi non trùng điệp, những hình dung liên tưởng... khiến cho sự hung bạo của sông Đà hiện lên sống động và truyền cảm.
a) Một trong những hình ảnh đầu tiên gợi sự hùng vĩ của sông Đà chính là cảnh đá bờ sông dựng vách thành
- Nghệ thuật ẩn dụ trong hình ảnh “vách thành” đã phần nào thể hiện sự vững chãi thâm nghiêm và những sức mạnh bí ẩn đầy đe dọa của vách núi như thành cao, vực thẳm, như hào sâu.
- Tác giả đã dùng những chi tiết tưởng như bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng lại có giá trị gợi tả gián tiếp độ hẹp của dòng sông, độ cao của vách đá, như “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”. Đến việc “đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách”.
- So sánh: Tài hoa của nhà văn còn hiện ra trong cách so sánh “vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu” - động từ “chẹt” và hình ảnh so sánh với cái “yết hầu” đã đem đến ấn tượng mãnh liệt cho người đọc về độ hẹp của lòng sông khi bị vách đá chèn ép tới nghẹt thở.
- Đặc biệt Nguyễn Tuân miêu tả thế giới sự vật thông qua cảm giác rất quen thuộc của Nguyễn Tuân đã được thể hiện độc đáo khi nhà văn tạo ra ấn tượng tương phản của xúc giác với chi tiết “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh”, tạo ra ấn tượng của thị giác khi lấy hè phố để miêu tả mặt sông, lấy nhà cao gợi tả vách đá, truyền cho người đọc những hình dung về cái tăm tối lạnh lẽo đột ngột khi con thuyền đi từ ngoài vào khúc sông có đá hun hút dựng vách thành qua hình ảnh so sánh về “một khung cửa sổ nào trên cái tầng thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
b) Sự hung bạo của sông Đà tiếp tục được đẩy cao hơn trong đoạn văn miêu tả cảnh mặt ghềnh Hát Loóng:
- Câu văn miêu tả “hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” có nhịp ngắn, nhanh, dồn dập kết hợp với các thanh sắc, những từ ngữ điệp nối tiếp thế chỗ nhau trong các cụm từ ngữ đã tái hiện sinh động quần thể những sức mạnh thiên nhiên dữ dội nhất của nước, sóng, gió, và đá sông Đà, trong đó cuồn cuộn những con sóng dữ vút lên, chồm lên nhau, trùng điệp ghê rợn trên mặt ghềnh.
- Từ láy “gùn ghè” và hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hóa về việc sóng gió trên mặt ghềnh Hát Loóng “lúc nào cũng đòi nợ xuýt” bất cứ người lái đò sông Đà nào qua đấy đã thể hiện sinh động sự hung hãn lì lợm và cuồng bạo của dòng sông.
c) Đem lại những ấn tượng mạnh mẽ hơn nữa là hình ảnh những cái hút nước trên sông.
- Một loạt những so sánh sống động, đặc sắc khiến hút nước thiện ra trong hình ảnh như một “cái giếng bê tông” xoáy tít, trong âm thanh của một “của cống cái bị sặc”, trong cả hình ảnh và âm thanh như mặt nước bị “rót dầu sôi”.
- Từ láy tượng hình “lừ lừ”, từ láy tượng thanh tăng nghĩa “ặc ặc” cùng những chi tiết so sánh mang sắc thái nhân hóa khi miêu tả nước “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, tất cả góp phần làm hiện ra cả hình ảnh và âm thanh của hút nước như một quái vật đang giận dữ tới ghê người”.
- Hình ảnh liên tưởng đến “quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực“ đã giúp người đọc dễ dàng hình dung ra cảm giác hãi hùng nếu phải đi thuyền men gần hút nước đáng sợ. Nhà văn còn phát huy trí tưởng tượng phong phú khi hình dung ra những bè gỗ to lớn nghênh ngang bị “lôi tuột xuống” đáy hút nước, hay chiếc thuyền bị hút “trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi... tan xác ở khuỷu sông dưới”.
- Không dừng lại trong những hình dung tưởng tượng về cái bè gỗ hay một con thuyền bất hạnh nào đó phải làm mồi cho hút nước, Nguyễn Tuân còn tạo ra một giả tưởng ly kỳ dẫn dụ người đọc vào trò chơi cảm giác, kéo họ xuống tận đáy hút nước xoáy tít, sâu hoắm cùng một anh bạn quay phim táo tợn. Hút nước vì thế đã được miêu tả bằng thủ pháp điện ảnh, hất ngược từ dưới lên một cách sống động, truyền cảm từ hình khối của “một thành giếng xây toàn bằng nước” cho đến màu sắc của dòng sông “nước xanh ve”, và thậm chí cho đến cả cảm giác sợ hãi rất chân thực của con người khi phải đứng trong lòng một “khối pha lê xanh như sắp vỡ tan”, bất cứ lúc nào cũng như sắp đổ ụp vào người.
d) Nhưng có lẽ khủng khiếp nhất trong “diện mạo và tâm địa của thứ kẻ thù số một“ của người phải là thác đá sông Đà.
d.1) Thác đá khi ở xa
- Khi còn xa mới tới thác, Nguyễn Tuân đã miêu tả âm thanh của tiếng nước thác bằng những từ ngữ chỉ cảm xúc, thái độ, tâm trạng của con người khi “oán trách”, “van xin”, khi “khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”, khi “rống lên”. Nghệ thuật nhân hóa đã khiến thác nước sông Đà thực sự trở thành một sinh thể sống đang giận dữ, gầm gào, đe dọa con người ngay cả khi nó chưa xuất hiện.
- Sự tài hoa tinh tế của Nguyễn Tuân còn thể hiện qua cách nhà văn dùng hệ thống những từ ngữ miêu tả âm thanh theo những cung bậc tăng dần cả về sắc thái cảm xúc và âm lượng để vừa miêu tả sống động sự đe dọa hung bạo của dòng sông, vừa miêu tả khoảng cách ngắn dần của người quan sát của thác đá sông Đà - và có lẽ đây cũng là cách làm tăng dần cảm giác hãi hùng, hồi hộp, kỳ thú.
- So sánh: đặc sắc nhất là những phép so sánh kỳ thú trong một câu văn dài đầy ắp những hình ảnh dữ dội với “hàng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng” - nhà văn đã thể hiện sự tài hoa độc đáo khi lấy hình ảnh gợi tả âm thanh, lấy lửa tả nước, lấy rừng tả sông, đặt những hình ảnh tương phản trong một trường liên tưởng bất ngờ, thú vị. Cách miêu tả ấy khiến âm thanh của thác đá không chỉ được cảm nhận bằng thính giác, không chỉ được hình dung qua trí tưởng tượng mà còn hiện ra trong những ấn tuợng đặc biệt sống động của thính giác, thị giác.
d.2) Thác đá khi ở gần
- Khi thác đá hiện ra, sau câu văn ngắn như một tiếng reo ngỡ ngàng, thích thú: “Tới cái thác rồi”, nhà văn đã đồng thời tả cả đá và nước thác với “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”. Tính từ “trắng xóa” lặp lại nhiều lần gây ấn tượng về sóng, về gió, về bọt nước trào sôi dữ dội, lại gợi tả làn hơi nước như mờ đi trên một diện rộng mênh mông của mặt sông; cùng với hình ảnh “chân trời đá”, câu văn miêu tả của Nguyễn Tuân đã làm hiện ra sự hùng vĩ tới choáng ngợp của thác đá sông Đà.
- Đá sông Đà cùng với nước với sóng với gió sông Đà được miêu tả qua một hình ảnh nhân hóa đặc sắc: “Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông... mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện... là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”. Sử dụng thuật ngữ của quân sự, Nguyễn Tuân đã gợi dậy cái sự bí ẩn và hiểm ác của đá sông Đà trong sự vĩnh hằng của thiên nhiên khi “ngàn năm mai phục”, khi dữ dằn, đột ngột hiện ra sau cái dập dềnh của sóng để “nhổm cả dậy vồ lấy thuyền”.
- Tùy theo hình dạng, kích thước của đá và cách nhìn của nhà văn mà đá sông Đà được miêu tả trong những cảm nhận khác nhau, khi thì “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm méo mó” bởi sự gồ ghề, lúc to lớn qua dáng “bệ vệ oai phong lẫm liệt”, khi này là tảng đá với những cạnh sắc nhọn hất ngược lên đem đến cảm nhận về sự “xấc xược” trong cái “hất hàm” thách thức, lúc khác lại là tảng đá nhẵn xanh xuôi chảy từ trên xuống qua hình ảnh “thằng đá tướng... tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng...”
- Nghệ thuật nhân hóa cùng những từ láy gợi hình đầy sức biểu cảm và nhân hóa là những tính từ chỉ tính cách, thái độ, cảm xúc đã giúp Nguyễn Tuân làm hiện lên một trong những phần khủng khiếp nhất của sông Đà, đó là thác đá trên dòng sông. Kết hợp với sóng, gió và nước thác, đá sông Đà không im lìm như đặc tính vốn có tự ngàn năm mà sống động, dữ dằn, thét gào, ác hiểm khiến đá sông Đà không chỉ lộ “diện mạo” mà cả “tâm địa” của “thứ kẻ thù số một” của con người.
- Một loạt những thuật ngữ của quân sự, võ thuật, thể thao như thạch trận, cuộc giáp lá cà, hàng tiền vệ, boong-ke, pháo đài..., một hệ thống dày đặc những động từ mang sắc thái nhân hóa, đặt trong những câu văn ngắn, dồn dập: “mặt sông rung tít như thác nước reo hò... hò la... ùa vào... bẻ gãy... thúc gối... đội thuyền... đánh miếng đòn độc hiểm... tóm lấy thuyền... khuýp quật vu hồi...” khiến thác đá sông Đà thực sự trở thành một chiến trường với những trận “hỗn chiến” ác liệt giữa con người với thiên nhiên. Sự ác liệt còn được tô đậm thêm bởi những âm thanh mãnh liệt của “một trận nước vang trời thanh la não bạt...” Có lúc thác đá được động vật hóa để làm tăng thêm sự hung hãn hoang dại trong hình ảnh “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”. Thậm chí, sự hiểm ác và sức mạnh ghê gớm phi phàm của thác đá sông Đà còn được nhà văn đẩy lên đến mức độ thần linh trong hình ảnh ẩn dụ về binh pháp của thần sông, thần đá.
Toàn bộ sông Đà với thác ghềnh, sóng gió, với đá, với nước thác... đã được Nguyễn Tuân miêu tả sinh động đầy ấn tượng như một thạch trận độc hiểm của một thần sông, thần đá với diện mạo khủng khiếp, tâm địa ác hiểm và những hành động hung hãn, dữ dằn.
e) Phong cách Nguyễn Tuân
Tuy nhiên ngay khi miêu tả sông Đà hung bạo và hiểm ác, khi làm hiện lên tất cả “diện mạo” và “tâm địa” của thứ “kẻ thù số một” của con người, nhà văn của những cảm giác mãnh liệt, những phong cảnh phi thường tuyệt mỹ, gió bão thác ghềnh dữ dội, những núi cao vực sâu... vẫn luôn truyền cho người đọc niềm khao khát được tận mắt chiêm ngưỡng vẻ đẹp kỳ thú của thiên nhiên.
- Khi miêu tả dòng sông Đà hung bạo ở khúc thượng nguồn, Nguyễn Tuân luôn có những câu văn say mê đầy phấn khích về những hình ảnh, âm thanh và hoạt động của dòng sông. Đó là khúc tráng ca mãnh liệt của “hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn lùn gió gùn ghè suốt năm”, là âm thanh man dại tới cuồng loạn của nước thác trong sự so sánh với lửa, với rừng, với “đàn trâu da cháy bùng bùng”, là sự hùng vĩ mênh mông của thác đá sông Đà với “sóng bọt trắng xóa cả một chân trời đá”, là sự ghê rợn, sảng khoái của một “trận nước vang trời thanh la não bạt” - tất cả đã tạo thành một tập hợp hoành tráng những sức mạnh thiên nhiên hung dữ, một cảnh trí có sức hấp dẫn kỳ lạ bởi cả nỗi sợ hãi và niềm say mê.
- Thậm chí, khi miêu tả dòng sông Đà ở khúc hạ lưu êm ả, câu văn của Nguyễn Tuân vẫn bâng khuâng trong cảm giác “dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thưuơng những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”. Từ láy “xa xôi” đã gợi nỗi nuối tiếc, nhớ nhung khúc thượng nguồn với những sức mạnh hoang dại, với những cuồn cuộn thét gào sóng gió, với vẻ đẹp dữ dội, hào hùng...
Thông qua sự quan sát tinh tế, cách diễn tả tài hoa, những tri thức uyên bác..., nhà văn của những cảm giác mạnh, những cảnh trí dữ dội phi thường đã làm hiện lên dòng sông Đà hung bạo, hiểm ác, không chỉ như một con “thủy quái”, “kẻ thù số một” của con người mà còn trở thành một công trình mỹ thuật kỳ vĩ của tạo hóa, khơi gợi cảm giác hãi hùng đầy ngưỡng mộ, mê đắm.
2. Dòng sông trữ tình
Cảm hứng lãng mạn luôn có xu hướng tạo ra những ấn tuợng mạnh mẽ bởi sự tương phản - trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”, sự tương phản đã hiện hữu ngay trong đối tượng miêu tả, bởi làm nên dòng sông Đà thực sự, ngoài chất hung bạo, không thể không nhắc đến chất thi vị trữ tình đằm thắm. Vẫn là dòng sông ấy, nhưng sau khi dòng sông “vặn mình vào một cái bến cát”, khi những bọt nước cuối cùng của sóng gió thượng nguồn “xèo xèo tan trong trí nhớ”, ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân đã dẫn người đọc đến một sông Đà êm đềm như một giấc mơ, dịu hiền như một miền cổ tích.
a) Hình ảnh sông Đà tuôn dài
- Làm nên nét trữ tình đầu tiên là hình ảnh “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Chính nhịp câu, lời văn và nghĩa chữ đã góp phần gợi tả những nét thi vị thật đặc biệt của dòng sông. Câu văn rất dài chỉ có một dấu ngắt duy nhất vừa như mô phỏng sự “tuôn dài” của dòng sông, vừa đem đến cảm giác về sự liền mạch bất tận, gợi hình ảnh dòng sông uốn lượn tuôn chảy từ những dãy núi hùng vĩ của biên giới Tây Bắc, miên man chảy xuống đồng bằng, lặng lẽ hòa vào sông Hồng rồi tha thiết đổ ra biển...
- Những thanh bằng liên tiếp ở đầu câu văn cũng làm tăng thêm sự yên ả, êm đềm, bình lặng cho dòng sông.
- Cách so sánh dòng sông như một áng tóc trữ tình đã đem đến cho sông Đà nét mềm mại đằm thắm, vẻ duyên dáng đầy nữ tính, và cũng không hề làm mất đi sự hùng vĩ của dòng sông.
- Trong câu văn miêu tả rất tài hoa của Nguyễn Tuân có thể thấy sông Đà đã nhận thêm vào dòng chảy của mình nét thơ mộng huyền ảo của mây trời, sự tươi tắn rực rỡ của hoa ban hoa gạo tháng hai, và đặc biệt là cái ấm áp thật gần gũi thân yêu của làn “khói núi Mèo đốt nương xuân”. Cách miêu tả của Nguyễn Tuân dẫn tới sự khẳng định: vẻ đẹp của sông Đà làm say mê trái tim người nghệ sỹ trước hết vì nó là vẻ đẹp của “đất nước Tổ quốc bao la”, sau nữa là vì nó gắn bó gần gũi thân thiết với cuộc sống con người. Nhà văn của những vẻ đẹp “vang bóng một thời” nay đã có sự thay đổi cơ bản trong quan điểm thẩm mỹ: cái đẹp không còn cô đơn lạc lõng xa xôi, cái đẹp hiện ra ấm áp giữa cuộc đời bình dị, cái đẹp hiện diện ngay trong cuộc sống đời thường.
b) Màu sắc của sông Đà
Vẻ đẹp mơ mộng trữ tình của sông Đà còn được hiện ra qua sắc màu đầy biến ảo khi vì niềm say mê, Nguyễn Tuân đã quan sát dòng sông một cách công phu và tinh tế. Màu sắc của dòng sông được miêu tả trong những thời điểm khác nhau với những sắc thái khác nhau, khi là “dòng xanh ngọc bích” trong sáng, quý giá, êm nhẹ của mùa xuân, khi “lừ lừ chín đỏ” vào mùa thu - những từ ngữ tượng hình đã gợi tả dòng chảy nặng nề, điềm đạm và chậm rãi của con sông đầy nặng phù sa thượng nguồn. Hình ảnh so sánh nước sông Đà mùa thu“ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”, “lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về” đã không chỉ làm hiện lên màu sắc rất đặc trưng của sông Đà trong mùa thu mà còn thể hiện sức mạnh tiềm tàng ẩn chứa đầy đe dọa của một dòng sông vẫn “năm năm báo oán đời đời đánh ghen” với con người. Vậy là ngay cả khi dừng lại miêu tả nét thơ mộng trữ tình của dòng sông, hình ảnh về một sông Đà hung bạo hình như vẫn ám ảnh đâu đây trong sự quan sát và cảm nhận của một nhà văn luôn say mê những cảm giác mạnh.
c) Con sông Đà gợi cảm
- Trong niềm yêu nhớ của Nguyễn Tuân, sông Đà “gợi cảm” như một “cố nhân”. Hai chữ “cố nhân” vừa là hình ảnh nhân hóa dòng sông như một người bạn cũ xa nhớ gần yêu, vừa đưa đến cho dòng sông chút vương vấn, cổ kính, xưa cũ của Đường thi.
- Đoạn văn sau đó tràn ngập những cấu trúc so sánh đặc sắc để miêu tả dòng sông Đà gợi cảm và trước hết là để bộc lộ cảm xúc của con người khi sắp gặp lại dòng sông. Nhìn dòng sông thấy “loang loáng như trẻ con chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy” là cái nhìn của một người chưa ra tới cửa rừng, mới chỉ nhìn thấy dòng sông lấp lóa nắng thấp thoáng ẩn hiện giữa những vạt cây mà đã háo hức, bồn chồn, đã vội vàng, khao khát...
- Khi liên tưởng mặt sông giống như “cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi”, Nguyễn Tuân đã đem đến cho sông Đà vẻ lãng mạn của hoa khói, sự trong sáng rực rỡ của sắc xuân, tỏa ra từ câu thơ vời vợi nhớ nhung được coi là “thiên cổ lệ cú” của Lý Bạch: “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Liên tưởng của nhà văn đã làm xao xuyến những tâm hồn chưa hề nguôi nỗi tiếc nuối nhớ nhung với những phong vị Đường thi cổ điển, để rồi nỗi xao xuyến ấy mơ hồ lan tỏa trên dòng sông gợi cảm, khiến sông Đà không chỉ chảy trong không gian, mà như còn tha thiết trong dòng thời gian miên viễn xa xăm của Đường thi.
- Sau đó là một câu văn chỉ nối tiếp các chủ ngữ: “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà”. Hai chữ “sông Đà” điệp lại cuối mỗi vế câu đẳng lập như nhịp lên niềm say mê phấn khích, như nhân lên những khoảng không gian phóng khoáng của bến bãi Đà giang, tạo cảm giác như nhà văn đang hân hoan ngợp giữa không gian sông Đà mênh mông để rồi say đắm òa vào những không gian ấy, không kịp bình tĩnh quan sát bằng lý trí, để miêu tả bằng những vị ngữ cụ thể, tất cả đều bị cuốn đi, dồn dập, gấp gáp theo nỗi khát khao.
- Cảm xúc gặp lại sông Đà được cụ thể hóa trong những so sánh bất ngờ thú vị: “Chao ôi, trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Nắng tuy hữu hình nhưng lại là vô thể, chỉ có thể nhìn mà không thể nắm bắt, “giòn tan” là chính từ thường chỉ đặc điểm sắc thái của những vật thể mỏng manh dễ vỡ. Nắng “giòn tan” là một ẩn dụ đẹp gợi tả cái nắng thật trong, thật sáng, thật mỏng và thật nhẹ; nó vừa mong manh, vừa quý giá, nó tương phản hoàn toàn với cái u ám trĩu nặng của bầu trời những ngày “mưa dầm”, giúp người đọc dễ dàng hình dung cảm giác trìu mến, nâng niu của nhà văn khi gặp lại con sông. Và sự nối lại giấc mơ càng hy hữu hiếm quý bao nhiêu, càng đem lại cảm giác sung sướng, thú vị bấy nhiêu. Nhà văn của những khát khao đã nhiều lần tới sông Đà và bất cứ lúc nào nếu muốn, ông cũng có thể đến với người cố nhân của mình, vậy mà qua so sánh “vui như nối lại chiêm bao đứt quãng” có thể thấy cảm giác khi gặp lại dòng sông lần nào cũng tươi mới kỳ diệu như được nối lại một giấc mơ đẹp, lần nào cũng như được tận hưởng niềm vui chưa từng có trong đời, lần nào cũng như lần đầu tiên, cuối cùng và duy nhất.
- Và cuối cùng, trong hình ảnh so sánh về cảm giác gặp lại sông Đà, nó “đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân”, sông Đà đã thực sự trở thành người bạn cũ, một tri âm với bao kỷ niệm gắn bó trong quá khứ, bao nhớ thương trong hiện tại, bao chung thủy trong tương lai đến, một cố nhân trái tính mà vẫn có sức hấp dẫn đến lạ kỳ.
d) Sắc thái lặng tờ hoang dại: Và có lẽ nét trữ tình thi vị nhất ở sông Đà chính là ở sắc thái lặng tờ hoang dại của nó.
- Mở đầu đoạn là một câu văn êm ru trong những thanh bằng: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà...” Câu văn đã đưa con thuyền, nhà văn và người đọc vào một cõi mơ êm đềm, yên ả, một cõi hoang sơ vắng lặng như chưa hề có dấu vết của con người. Tính từ “lặng tờ” lặp lại tới hai lần, cùng câu văn mang ý nghĩa khẳng định “Hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi” khiến cho sự “lặng tờ” của con sông Đà dày thêm, không chỉ vì cái yên ả trong không gian mà còn vì cái thăm thẳm của thời gian.
- Bờ sông tiếp tục được miêu tả trong những hình ảnh so sánh độc đáo: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Cách so sánh của Nguyễn Tuân đã không hề làm rõ, làm hiện hữu hình ảnh của bờ sông, cũng không làm cụ thể hóa những khái niệm trừu tượng mà thậm chí chỉ càng làm dòng sông trôi xa thêm vào miền mộng mơ, tiêu điều của cõi hồng hoang xa xôi, trong thế giới cổ tích huyền hoặc của tuổi thơ và trong chính thế giới ấy, người đọc đã nhận ra rõ hơn sự lặng tờ hoang dại của một dòng sông trong trẻo êm đềm.
- Sự yên ả êm đềm tới mức mơ hồ của sông Đà khúc hạ nguồn tiếp tục được nhà văn tô đậm hơn bởi những hình ảnh thật nhỏ bé mong manh trong không gian trong lành, nguyên sơ, thuần khiết với “mấy lá ngô non đầu mùa” mới nhú, mấy “búp cỏ gianh đẫm sương đêm” và nhấ là được gợi tả giữa âm thanh dịu nhẹ của tiếng đàn cá dầm xanh quẫy nước.
- Đặc biệt nhất là hình ảnh “con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương”, cất tiếng hỏi nhà văn “bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành”, chi tiết này làm tăng lên cảm giác ảo giác như nhà văn đang lạc vào một cõi trong trẻo, an lành, không có thực của thế giới cổ tích. Ảo giác mãnh liệt tới mức nhà văn bỗng “thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa”, để âm thanh của cuộc sống hiện tại giúp nhà văn nhận ra rằng mình vẫn đang ở thế giới hiện thực, là con người trong nền văn minh hiện đại. Có lẽ không một sự miêu tả trực tiếp nào lại khiến sự lặng tờ hoang dại của dòng sông hiện lên rõ nét đến thế như trong lời ao ước của Nguyễn Tuân khi đứng bên một dòng sông quá đỗi êm đềm.
Trong đoạn văn miêu tả dòng sông trữ tình, cái “tôi” trữ tình của nhà văn đã trực tiếp xuất hiện qua những lời kể hào hứng: “Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân... tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu...”, những lời cảm thán nồng nàn: “Chao ôi, trông con sông vui như...”, “Chao ôi, thấy thèm được..”. Vậy là bên cạnh một Nguyễn Tuân sắc sảo, tài hoa và uyên bác còn có một Nguyễn Tuân đam mê dạt dào cảm xúc, khi xao xuyến nỗi nhớ nhung như tình nhân, như cố nhân...; khi bồng bột như trẻ nhỏ trước mênh mông phóng khoáng của bờ sông Đà, bãi sông Đà, khi lại say sưa như muốn tan hòa vào thế giới bát ngát của dòng sông và nhất là luôn lai láng niềm mong ước được “đề thơ vào sông nước”.
III/ Kết luận
Với việc phối hợp linh hoạt các thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ, so sánh, nhân hóa, với việc sử dụng lối hành văn đầy biến hóa độc đáo và giàu sức gợi tả, với việc vận dụng tri thức tổng hợp của những loại hình nghệ thuật khác nhau, Nguyễn Tuân đã miêu tả, bộc lộ cảm xúc và xây dựng thành công hình tuợng dòng sông Đà trong hai sắc thái hung bạo và trữ tình. Nguyễn Tuân đã thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật của mình trong những trang viết tài hoa uyên bác của mình khi miêu tả dòng sông
ĐỀ 2
Nhà văn Ernest Hemingway đã từng chia sẻ: “Con người không phải lúc nào cũng coi thiên nhiên là kẻ thù. Con người và thiên nhiên có thể vừa là bạn vừa là đối thủ.”
Cảm nhận của anh/chị về hai nét tính cách hung bạo và trữ tình của dòng Sông Đà trong đoạn văn sau và làm rõ ý kiến trên.
… Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Mặt sông rung tít lên như tuyếc bin thủy điện nơi đáy hầm đập. Mặt sông trắng xóa càng làm bật rõ lên những hòn những tảng mới trông tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá to đá bé. Nhưng hình như Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông.
và
Con sông Đà gợi cảm. Đối với mỗi người, Sông Đà lại gợi một cách. Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như một cố nhân. Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu, đã thấy thèm chố thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình sắp đổ ra Sông Đà. Xuống một cái dốc núi, trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy. Tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Bờ sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy.
(Trích Người lái đò sông Đà, Ngữ văn 12, tập 1, NXB Giáo dục 2015)
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
1. Mở bài
– Giới thiệu vấn đề nghị luận
Bút kí là một thể loại được tạo nên từ công sức tìm tòi, nghiên cứu dựa trên các tài liệu phong phú. Nó thể hiện vốn sống và tầm hiểu biết sâu rông của nhà văn. Nó đem đến cho người đọc những hiểu biết phong phú về các đặc điểm, tính chất của đối tượng được đề cập… Nhắc đến bút kí người ta không thể không nhắc đến đỉnh cao thể kí với “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân.
– Dẫn ra vấn đề cần nghị luận
Người lái đò sông Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kỳ vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên. “Nói chuyện với người lái đò, như càng lai láng thêm cái lòng muốn đề thơ vào sông nước”.
Hai đoạn văn dưới đây còn cho thấy công phu lao động khó nhọc cùng sự tài hoa, uyên bác của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân trong việc dùng chữ nghĩa để tái tạo những nét tâm hồn đối lập mà thống nhất của thiên nhiên tạo hóa. Như cách nói của nhà văn Ernest Hemingway: “Con người không phải lúc nào cũng coi thiên nhiên là kẻ thù. Con người và thiên nhiên có thể vừa là bạn vừa là đối thủ.”
2. Thân bài
2.1. Khái quát chung
– Nguyễn Tuân (1910 – 1987) quê ở Hà Nội, xuất thân trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn. Nguyễn Tuân cầm bút từ khoảng đầu những năm 1930, nổi tiếng từ 1938 với những tác phẩm có phong cách độc đáo. Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân nhiệt tình tham gia cách mạng và kháng chiến, trở thành một cây bút tiêu biểu của nền văn học mới.
Nguyễn Tuân để lại một sự nghiệp văn học phong phú với những trang viết độc đáo và đầy tài hoa.
– Tuỳ bút Người lái đò sông Đà rút từ tập tuỳ bút Sông Đà (1960), thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc xa xôi, rộng lớn.
2.2 Cảm nhận về đoạn 1
– Vẻ đẹp hung dữ của sông Đà qua tiếng nước thác
+ Nguyễn Tuân nhìn con Sông Đà như một người có cá tính, có linh hồn và có cả tâm trạng, lúc “ặc ặc giận dữ”, lúc “oán trách”, lúc “van xin”, rồi lại như khiêu khích, giọng gằn và chế nhạo. Giọng điệu đa dạng, kì bí, không lặp lại của sông Đà trong một khuông nhạc dữ dội. Mỗi khoảnh khắc lắng tai nghe lại có những thanh âm khác nhau. Tác giả còn tạo liên tưởng như một cuộc đối thoại của con người trong một cuộc chiến đầy áp đảo của thế lực thiên nhiên hoang dã đang áp đảo một đối tượng nhỏ bé nào đó. Nghệ thuật nhân hóa đã khiến thác nước sông Đà thực sự trở thành một sinh thể sống đang giận dữ, gầm gào, đe dọa con người ngay cả khi nó chưa xuất hiện. Hệ thống những từ ngữ miêu tả âm thanh theo những cung bậc tăng dần cả về sắc thái cảm xúc và âm lượng để vừa miêu tả sống động sự đe dọa hung bạo của dòng sông.
+ Nhà văn sử dụng những liên tưởng độc đáo: tiếng thác (rống) – tiếng trâu mộng (lồng lộn) – tiếng rừng lửa (gầm thét). Âm thanh thác được động vật hóa thành tiếng gầm “trâu mộng”, lấy thác lửa (hỏa) để liên tưởng với rừng lửa cháy rừng rực để tạo ra một bất ngờ thẩm mĩ. Từ đó tăng cường các cảm giác của người đọc, khơi gợi tưởng tượng về sức mạnh hoang dã của thiên nhiên như một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử.
Nguyễn Tuân còn chạm bút tới cái hút nước một lần nữa: “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Hai chữ “ặc ặc” mô phỏng rất tài thứ âm thanh quái vật, khiến sông Đà như loài thủy quái bị bóp cổ đang quằn quại.
– Vẻ đẹp hùng vĩ dữ dội của sông Đà qua thạch trận bờ sông:
+Sông Đà “bày thạch trận trên sông”. Sông Đà còn lắm mưu nhiều kế bày bao nhiêu mẹo lược và sự nham hiểm để sẵn sàng bóp chết con người. Bằng thủ pháp nhân hóa, người đọc nhận ra từng sắc diện người trong những hình thù đá vô tri. Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để thổi hồn vào từng thớ đá: “Cả một chân trời đá mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó” -> Những hòn đá vô tri vô giác nhưng qua cái nhìn của Nguyễn Tuân chúng mang vẻ du côn của thiên nhiên hoang dại và hung dữ với ba trùng vi thạch trận.
+ Tác giả vận dụng kiến thức của nhiều ngành nhiều lĩnh vực để khắc họa khung cảnh đối đầu giữa Sông Đà và ông lái đò: lịch sử, địa lí, quân sự, võ thuật, điện ảnh, hội họa, điêu khắc, âm nhạc… Những kiến thức liên ngành đa dạng ấy tạo bề dày uyên bác trong vốn tri thức của nhà văn, nâng cho đôi cánh tài hoa bay bổng.
Con sông Đà hung bạo, tàn ác không khác gì “kẻ thù số một của con người”. Nhưng cũng chính từ hình ảnh con sông ấy lại là kẻ tôn vinh tài năng nghệ thuật tài hoa, tài tử và cực kì uyên bác của một ngòi bút số một về thể loại tùy bút
2.3 Cảm nhận về đoạn 2
– Vẻ đẹp gợi cảm của sông Đà:
– Trong niềm yêu nhớ của Nguyễn Tuân, sông Đà “gợi cảm” như một “cố nhân”. Hai chữ “cố nhân” vừa là hình ảnh nhân hóa dòng sông như một người bạn cũ xa nhớ gần yêu, vừa đưa đến cho dòng sông chút vương vấn, cổ kính, xưa cũ của Đường thi.
– Đoạn văn sau đó tràn ngập những cấu trúc so sánh đặc sắc để miêu tả dòng sông Đà gợi cảm và trước hết là để bộc lộ cảm xúc của con người khi sắp gặp lại dòng sông. Nhìn dòng sông thấy “loang loáng như trẻ con chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy” là cái nhìn của một người chưa ra tới cửa rừng, mới chỉ nhìn thấy dòng sông lấp lóa nắng thấp thoáng ẩn hiện giữa những vạt cây mà đã háo hức, bồn chồn, đã vội vàng, khao khát…
– Khi liên tưởng mặt sông giống như “cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi”, Nguyễn Tuân đã đem đến cho sông Đà vẻ lãng mạn của hoa khói, sự trong sáng rực rỡ của sắc xuân, tỏa ra từ câu thơ vời vợi nhớ nhung được coi là “thiên cổ lệ cú” của Lý Bạch: “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Liên tưởng của nhà văn đã làm xao xuyến những tâm hồn chưa hề nguôi nỗi tiếc nuối nhớ nhung với những phong vị Đường thi cổ điển, để rồi nỗi xao xuyến ấy mơ hồ lan tỏa trên dòng sông gợi cảm, khiến sông Đà không chỉ chảy trong không gian, mà như còn tha thiết trong dòng thời gian miên viễn xa xăm của Đường thi.
– Sau đó là một câu văn chỉ nối tiếp các chủ ngữ: “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà”. Hai chữ “sông Đà” điệp lại cuối mỗi vế câu đẳng lập như nhịp lên niềm say mê phấn khích, như nhân lên những khoảng không gian phóng khoáng của bến bãi Đà giang, tạo cảm giác như nhà văn đang hân hoan ngợp giữa không gian sông Đà mênh mông để rồi say đắm òa vào những không gian ấy, không kịp bình tĩnh quan sát bằng lý trí, để miêu tả bằng những vị ngữ cụ thể, tất cả đều bị cuốn đi, dồn dập, gấp gáp theo nỗi khát khao.
– Cảm xúc gặp lại sông Đà được cụ thể hóa trong những so sánh bất ngờ thú vị: “Chao ôi, trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Nắng tuy hữu hình nhưng lại là vô thể, chỉ có thể nhìn mà không thể nắm bắt, “giòn tan” là chính từ thường chỉ đặc điểm sắc thái của những vật thể mỏng manh dễ vỡ. Nắng “giòn tan” là một ẩn dụ đẹp gợi tả cái nắng thật trong, thật sáng, thật mỏng và thật nhẹ; nó vừa mong manh, vừa quý giá, nó tương phản hoàn toàn với cái u ám trĩu nặng của bầu trời những ngày “mưa dầm”, giúp người đọc dễ dàng hình dung cảm giác trìu mến, nâng niu của nhà văn khi gặp lại con sông. Và sự nối lại giấc mơ càng hy hữu hiếm quý bao nhiêu, càng đem lại cảm giác sung sướng, thú vị bấy nhiêu. Nhà văn của những khát khao đã nhiều lần tới sông Đà và bất cứ lúc nào nếu muốn, ông cũng có thể đến với người cố nhân của mình, vậy mà qua so sánh “vui như nối lại chiêm bao đứt quãng” có thể thấy cảm giác khi gặp lại dòng sông lần nào cũng tươi mới kỳ diệu như được nối lại một giấc mơ đẹp, lần nào cũng như được tận hưởng niềm vui chưa từng có trong đời, lần nào cũng như lần đầu tiên, cuối cùng và duy nhất.
– Và cuối cùng, trong hình ảnh so sánh về cảm giác gặp lại sông Đà, nó “đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân”, sông Đà đã thực sự trở thành người bạn cũ, một tri âm với bao kỷ niệm gắn bó trong quá khứ, bao nhớ thương trong hiện tại, bao chung thủy trong tương lai đến, một cố nhân trái tính mà vẫn có sức hấp dẫn đến lạ kỳ.
Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, và bằng một tình yêu thiết tha thiên nhiên đất nước. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông, một ngọn thác, một dòng chảy đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có – Nguyễn Tuân xứng đáng là một cây bút tài hoa bậc nhất của nền văn học Việt Nam.
2.4. Nhận xét
– Với Nguyễn Tuân con sông Đà không phải là một thực thể vô tri vô giác mà dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân nó được thể hiện với những cá tính rõ nét. Đó là những tính cách độc đáo thể hiện qua sự hùng vĩ và thơ mộng.
+ Đoạn văn 1: là những hình ảnh đó của sông Đà hùng vĩ, bí hiểm hung bạo mà đầy những chông gai, thử thách là hiện thân của thứ kẻ thù luôn thách thức, tấn công và cực kì nguy hiểm với con người.
+ Đoạn văn 2: sông Đà không còn là con sông hung bạo hiểm trở, không còn là những thác nước cheo leo hay những bờ đá dựng đứng đầy hiểm trở mà con sông ở đây hiền hòa, gần gũi, trở thành người bạn thân thiết tri kỉ của con người.
– Cả hai đoạn văn đều thể hiện nét tài hoa của Nguyễn Tuân trong nghệ thuật so sánh, sự độc đáo trong trí tưởng tượng phong phú, mà còn là một biểu hiện tình cảm sâu sắc đối với dòng sông Đà. Những quan sát, suy nghĩ, xúc cảm của ông rất tinh vi nhưng cũng rất chân thật, xuyên suốt cả tác phẩm là lời văn mạnh mẽ, dữ dội và đầy chiều sâu kiến thức lẫn chiều sâu của ngôn ngữ văn chương.
3. Kết bài
Quan sát Sông Đà dưới các góc độ khác nhau, nhà văn bộc lộ cảm nghĩ, nghe nhìn, quan sát, nghiền ngẫm và sáng tạo của mình, qua “Người lái đò Sông Đà”, người ta luôn bắt gặp những hình ảnh ví von độc đáo, bất ngờ. Hai đoạn văn tiêu biểu của bài kí cho ta cảm giác Nguyễn Tuân muốn đua tài năng viết văn của mình với vẻ đẹp tạo hóa, của thiên nhiên và con người. Chính vì thế mà Sông Đà trong văn chương ông vừa là Sông Đà hiện thực, vừa là Sông Đà nghệ thuật mang tình yêu của Nguyễn Tuân.
(…) Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm, Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về (…)
(Người lái đò Sông Đà - Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12)
(…) Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” như người Huế thường miêu tả (…)
(Ai đã đặt tên cho dòng sông? - Hoàng Phủ Ngọc Tường,Ngữ văn 12)
Cảm nhận hai đoạn văn trong Người lái đò Sông Đà - Nguyễn Tuân và Ai đã đặt tên cho dòng sông? – Hoàng Phủ Ngọc Tường
1. Vài nét về tác giả và tác phẩm
- Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ lớn, với phong cách nghệ thuật độc đáo, nổi bật là nét tài hoa, uyên bác, đặc biệt sở trường về tuỳ bút. Người lái đò Sông Đà là một tuỳ bút đặc sắc, kết tinh nhiều mặt của phong cách Nguyễn Tuân, viết về vẻ đẹp và tiềm năng của thiên nhiên và con người Tây Bắc.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nghệ sĩ tài hoa, mang đậm chất Huế, có nhiều thành tựu về thể kí. Ai đã đặt tên cho dòng sông? là một tuỳ bút giàu chất trữ tình viết về vẻ đẹp sông Hương với bề dày lịch sử và văn hoá Huế, rất tiêu biểu cho phong cách của ông.
2. Về đoạn văn trong tác phẩm Người lái đò Sông Đà
- Nội dung
+ Đoạn văn tập trung miêu tả vẻ đẹp đầy chất tạo hình của sông Đà với hình dáng thơ mộng, đường nét mềm mại, ẩn hiện; màu sắc dòng nước biến đổi tương phản theo mùa, gây ấn tượng mạnh.
+ Hiện diện một cái tôi Nguyễn Tuân đắm say, nồng nhiệt với cảnh sắc thiên nhiên, tinh tế và độc đáo trong cảm nhận cái đẹp.
- Nghệ thuật
+ Hình ảnh, ngôn từ mới lạ; câu văn căng tràn, trùng điệp mà vẫn nhịp nhàng về âm thanh và nhịp điệu.
+ Cách so sánh, nhân hoá táo bạo mà kì thú; lối tạo hình giàu tính mĩ thuật, phối hợp nhiều góc nhìn theo kiểu điện ảnh.
3. Về đoạn văn trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông?
- Nội dung
+ Đoạn văn miêu tả vẻ đẹp sông Hương theo thuỷ trình của nó, với những vẻ uyển chuyển, linh hoạt của dòng chảy; vẻ biến ảo của màu sắc; vẻ uy nghi trầm mặc củacảnh quan đôi bờ.
+ Toát lên một tình yêu xứ sở sâu nặng, đằm thắm, một cách cảm nhận bình dị mà tinh tế của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
- Nghệ thuật
+ Hình ảnh chân thực mà gợi cảm; câu văn kéo dài mà khúc chiết, thanh điệu hài hoà, tiết tấu nhịp nhàng.
+ Lối so sánh gần gũi và xác thực, sử dụng nhuần nhuyễn các địa danh và cách nói của người Huế.
4. Về sự tương đồng và khác biệt giữa hai đoạn văn
- Tương đồng. Cùng miêu tả vẻ đẹp phong phú và biến ảo của sông nước, cùng bộc lộ tình yêu mãnh liệt dành cho thiên nhiên xứ sở với một mĩ cảm tinh tế, dồi dào; cùng bao quát sông nước trên nền cảnh khoáng đạt của không gian và thời gian, cùng được viết bằng một thứ văn xuôi đậm chất trữ tình, giàu hình ảnh, âm thanh và nhịp điệu.
- Khác biệt. Đoạn văn của Nguyễn Tuân: trội về cảm xúc nồng nàn, cảm giác sắc cạnh, liên tưởng phóng túng, so sánh táo bạo; cảnh sắc được bao quát từ nhiều góc nhìn khác nhau, theo nhiều mùa trong năm. Đoạn văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường: trội về cảm xúc sâu lắng, cảm giác gắn với suy tư; cảnh sắc được bao quát từ cùng một góc nhìn mà nương theo thuỷ trình để nắm bắt sự biến đổi của sông nước qua từng chặng, từng buổi trong ngày.