Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng cho người đọc hình dung ra được vẻ đẹp nhí nhảnh hồn nhiên của những người chiến sĩ đang tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Đó là những người lính với khí phách phi thường, không quản khó khăn gian khổ quyết bảo vệ Tổ quốc thân yêu, đứng giữa cái sống và cái chết nhưng những chàng chiến sĩ ấy vẫn hồn nhiên yêu đời.
Tây Tiến là tên một binh đoàn có nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt – Lào, tiêu hao sinh lực địch. Phần đông lính Tây Tiến là những chàng trai Hà Thành, họ phải xã gia đình, xa quê hương lao vào vùng bom đạn ác liệt của kẻ thù, nhưng cuộc sống khó khăn nguy hiểm vẫn không làm mất đi chất lãng mạn, vẻ hồn nhiên trong con người họ.
Sinh ra và lớn lên trên đất Hà Thành, Quang Dũng mang phong cách của một chàng trai hào hoa, lãng mạn, khi gặp cảnh và người nơi miền Tây Bắc, chất lãng mạn đó đã tạo thành những vần thơ bi tráng, hào hùng. Bài thơ Tây Tiến mang chất thơ lãng mạn cách mạng, lãng mạn anh hùng, chất lãng mạn say người giúp người lính vươn lên gian lao khắc nghiệt, nó làm cho đất nước thêm tráng lệ kì vĩ và con người thêm sang trọng, hào hoa.
Từng câu từng chữ trong bài thơ đã làm tái hiện lên hình ảnh người lính Tây Tiến với vẻ đẹp bình dị, hồn nhiên. Toàn bộ bài thơ tràn ngập nỗi nhớ: nhớ rừng hoang vu, hiểm trợ, dữ dội, nhớ những cảnh đẹp huyền ảo thơ mộng mĩ lệ nên thơ, đặc biệt là nhớ bước chân hành quân của Tây Tiến, nhớ gương mặt, ánh mắt… nhớ cả những hi sinh gian khổ, những giây phút đồng đội nằm xuống nơi biên cương. Tất cả cứ theo dòng hồi ức mà hiện lên cùng với vị trí tưởng tượng phóng khoáng, bay bổng.
Để giúp cho trí tượng tưởng bay cao, bay xa và tình cảm, cảm xúc được diễn tả một cách đầy đủ, trọn vẹn nhất, nhà thơ đã vận dụng thủ pháp nghệ thuật tô đậm cái phi thường, gây ánh tưởng mạnh về cái hùng vĩ, dữ dội cũng như cái tuyệt mĩ, thơ mộng. Một trong những thủ pháp nghệ thuật được sử dụng đắc địa nhất là thủ pháp đối lập. Đối lập giữa cái hùng vĩ, dữ dội với cái tuyệt mĩ, thơ mộng, đối lập giữa gian khổ, vất vả với anh hùng, bất khuất, đối lập giữa cái bi tráng và cái hùng…
Thiên nhiên trong bài thơ Tây Tiến hiện lên thật kĩ vĩ, thể hiện sự khó khăn hiểm trở của rừng núi, đồng thời cũng thể hiện tinh thần lạc quan của các chiến sĩ trước khó khăn gian khổ. Hồn thơ lãng mạn của Quang Dũng đã tô đậm, tuyệt đối hóa cái sừng sững, hùng vĩ của thiên nhiên để qua đó thấy được ý chí dấn thân của người lính Tây Tiến.
"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi."
Sự hiểm trở của rừng núi được tái hiện lên qua bốn câu thơ ngắn, nhưng cũng đủ để ta hình dung ra được những khó khăn gian khổ mà chiến sĩ của ta phải trải qua."Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm". Nhịp điệu tiếp nối liên tục của những thanh trắc kết hợp với cùng một lúc hai từ láy tượng hình (khúc khuỷu, thăm thẳm) dường như đã đẩy chiều cao của dốc núi lên vời vợi hình thế cheo leo, gập ghềnh. Cách ngắt nhịp câu thơ (Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm) như muốn diễn tả nỗi vất vả, cực nhọc cùng với lưng áo đẫm mồ hôi của người lính Tây Tiến.
Độ cao của rừng núi có vẻ như đến tận cùng của trời đất, nó được thể hiện qua câu thơ:
"Heo hút cồn mây súng ngửi trời"
Đứng giữ rừng núi bao la hiểm trở ấy, nhìn lên vẫn thấy núi cao, tưởng chừng như chạm mây, mây chất thành đống, thành cồn, "heo hút cồn mây", người lính như như đứng trên mây, giữa bốn bề mây đến nỗi "súng ngửi trời". Chữ "ngửi" được dùng rất táo bạo. "Súng ngửi trời" là cách đo chiều cao của người lính – vừa chính xác, vừa rất "tếu". Hiệu quả của bút pháp lãng mạn không chỉ dựng lên một khung cảnh thiên nhiên hiểm trở mà còn dựng lên kích thước, tư thế của người lính, một tư thế, kích thướng sánh ngang tầm thiên nhiên.
Khi tác giả miêu tả cản núi rừng tác giả đã dùng hình ảnh "Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống". Cảnh được dựng bằng thủ pháp đối lập để khắc họa cái dữ dội, gân guốc, hùng vĩ của núi rừng. Những dốc núi cao tới chóng mặt, bên dưới là vực sâu thăm thẳm. Người lính như treo mình giữa vách đá, trên một sườn núi giữa chặng đường hành quân."Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"
Đây cũng là một cách đối lập tạo ra sự tương phản giữa hai chặng đường hành quân: vượt núi vất vả – dừng chân thoải mái. Câu thơ toàn thanh bằng với 6/7 tiếng là phù bình thanh cùng với hình ảnh những ngôi nhà ấm áp thấp thoáng ẩn hiện trong sương mù, mưa núi đã diễn tả trọn vẹn cái cảm giác thơ phào nhẹ nhõm, thoải mái. Đúng là "một dòng thơ bỗng bay ngang lưng trời" (Lê Gia Khánh).
Bút pháp lãng mạn vẫn được sử dụng để tô đậm vẻ hoang dại, dữ dội, đầy huyền bí, ghê gớm của rừng thiêng:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"
Hai chi tiết tiêu biểu (thác gầm thét, cọp trêu người) gắn với hai thời điểm tiêu biểu (chiều chiều, đêm đêm), không phải một chiều, một đêm mà thời gian lặp lại mang tính liên tục, không gian như bị vây bọc bởi những âm thanh man dại. Người yếu bóng vía chỉ nghe thôi đã sợ. Câu thơ tạo nên ấn tượng mạnh mẽ trong trí tượng trượng của người đọc.
Cảm xúc lãng mạn được xây dựng trên nền cảm xúc kí ức. Đoạn thơ được viết ra như một dòng kí ức đứt, nối, mờ, tỏ liên tục đồng hiện. Cho nên đan cài với những câu thơ tả cảnh dữ dội, hùng vĩ là những câu thơ mênh mang, chơi vơi. Hai câu cuối đoạn là một sự đầm ấm bất ngờ đến ngây ngất bởi tiếng gọi tha thiết vang lên tự đáy lòng (nhớ ôi Tây Tiến), bởi hình ảnh gợi sự thanh thản, đầm ấm đến nao lòng (cơm lên khói, thơm nếp xôi). Hai câu thơ còn có giá trị chuyển cạnh, chuyển đoạn.
Cảnh sông nước bộc lộ hồn thơ nhảy cảm, tinh tế và tài hoa của Quang Dũng. Làn sương chiều mỏng, dáng lau đơn sơ, phơ phất, dáng người trên độc mộc, dòng nước, hoa đong đưa tình tứ… Nhà thơ không tả mà chỉ gợi bằng những câu thơ thiên về cảm tính trực giác. Cái nhạt nhòa hư ảo càng được tăng lên bởi những từ ngữ như gợi nhớ – một nỗi nhớ mênh mang ( chiều sương ấy, có thấy, nỗi nhớ, người đi, hồn lau, bến bờ, dòng nước, đong đưa…). Tất cả cứ lung linh khó nắm bắt. Chỉ có thể cảm nhận bằng tâm hồn – một tâm hồn chứa tận cùng sâu thẳm là tình yêu và nỗi nhớ.
Mỗi đoạn thơ có một giá trị riêng. Song, đặt hai đoạn thơ cạnh nhau, bút pháp lãng mạn càng được nổi bật bởi sự tương phản đối lập. Nếu ở đoạn 1, cảnh được vẽ bằng những nét bút gân guốc, táo bạo, khỏe khoắn thì ở đoạn 2 cảnh lại được vẻ bởi những nét bút mềm mại, tinh tế. Hai nét vẽ đó dựng lên hoàn chỉnh bức tranh thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, bí hiểm vừa thơ mộng, mĩ lệ. Đó chính là chất tài hoa trong ngòi hút của Quang Dũng.
Bút pháp lãng mạn tiếp tục được nhà thơ khai thác triệt để khi xây dựng chân dung người lính Tây Tiến. Thật ra không phải đến đây hình ảnh người lính mới hiện lên mà ở hai phần trên, hình ảnh người lính cứ thấp thoáng ẩn hiện: ở tư thế trèo đèo, lội suối, ở những phút dừng chân giữa chặng đường hành quân, ở "đêm hội đuốc hoa" và "Châu Mộc chiều sương ấy"… thậm chí có lúc hiện lên rất rõ"
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời".
Tuy nhiên phải đến đoạn thơ thứ ba, hình ảnh người lính Tây Tiến mới hiện lên đầy đủ. Hai câu mở đoạn:
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Tác giả muốn tô đậm những gian khổ, đói rét, ốm đau của người lính. Ý kiến thứ nhất cho rằng hiểu theo ý kiến thứ hai là không đúng bởi nếu sốt rụng tóc thì rụng không đều, lởm chởm và nếu có đi nữa thì xem ra một đội quân như vậy sẽ rất bệnh hoạn, suy sụp về thể chất. Ý kiến thứ hai cho rằng hiểu theo cách thứ nhất là không đúng với hoàn cảnh kháng chiến gian khổ, thiếu thốn và không nắm được thủ pháp đối lập của bút pháp lãng mạn được Quang Dũng sử dụng trong bài thơ.
Có thể hiểu câu thơ có sự đan cài của cả hai nghĩa: trong những anh "vệ trọc" có những người do sốt rét mà rụng tóc, màu xanh da do sốt rét của các anh hòa với lá rừng. Nhà thơ Trần Lê Văn, một chiến sĩ Tây Tiến đã từng nói: "Đánh trận tử vong ít, sốt rét tử vong nhiều". Chính Quang Dũng cũng có lần tâm sự: "Chúng tôi hành quân bằng đôi chân chân thực sự đã nếm múi Tây Tiến. Chúng tôi mở rừng, ăn rừng, ngủ rừng". Thiếu thốn, đói rét, ốm đau là một thực tế. Nhà thơ nói đến tất cả những điều trong đó nhưng ý thơ lại được nâng bởi những nét oai hùng. Hơn nữa, ngay trong hai câu thơ đã chứa đựng một sự đối lập, đối lập giữa thể xác và tinh thần. Thể xác có thể ốm yếu nhưng tinh thần thì vô cùng dũng mãnh. Ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng đã khắc khọa chân dung người lính hết sức lẫm liệt, oai hùng. Tác giả dùng hai chữ "binh đoàn" mà không dùng "đoàn quân". Cái "dữ oai hùm" khiến ta nhớ đến câu thơ hừng hực "hào khí Đông A" của Phạm Ngũ Lão: "Tam quân tì hổ khí thôn ngưu:.
Nhà thơ không miêu tả một gương mặt riêng biệt mà dồn tất cả sử đối lập tạo nên một gương mặt chung khiến ta vừa cảm động, vừa cảm phục, vừa xót thương vừa tự hào. Hình ảnh thơ tuy có thiên về nét vẽ hình thể nhưng lại giúp người đọc thấy rõ hơn khí phách hào hùng của những chiến sĩ Tây Tiến – nhưng anh "vệ trọc" nổi tiếng một thời làm kẻ thù phải kinh hoàng khiếp sợ.
Giữa hai câu trước và hai câu sau lại tạo nên một đối lập khác: đối lập với "mắt trừng", "oai hùng" là"mộng", là "mơ", đặc biệt là "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm". Thật hào hùng mà cũng thật hào hoa. Chiến tranh tàn khốc rất cần đến nét dữ dằn nhưng không thể giết chết những giấc mơ, không thể cướp đi những mộng đẹp. Đó là vẻ đẹp và đó cũng là sức mạnh.
Trước đây có người cho rằng người chiến sĩ Tây Tiến trong bài thơ chỉ có cái mẽ "Yêng hùng", khí phách bên ngoài còn bên trong thì yếu ớt, tiểu tư sản, mơ mộng viễn vong. Thực ra, nếu lãng mạn tiểu tư sản đem lại khoái cảm thẩm mĩ tích cực thì có gì là xấu xa. Hơn nữa, người lính trong Đồng chí của Chính Hữu nhớ "giếng nước gốc đa", nhớ "bạn thân cày", nhớ "gian nhà không"… người lính trong Nhớ của Hồng Nguyên nhớ đến cháy lòng người vợ trẻ "mòn chân bên cối gạo canh khuya"… thì người lính trong Tây Tiến của Quang DŨng ở về Hà Nội để nhớ một dáng hình con gái thì cũng là một điều dễ hiểu. Trong chiến tranh, nếu người lính không còn biết mơ, biết nhớ, không còn mảy may rung động trước một bông hoa đẹp hay sắc đẹp của một người con gái thì điều đó quả thật là vô cùng đáng sợ. Họ chiến đấu làm gì? Vì ai? Nếu không phải là để trả lại cho con người, cho dân tộc những giá trị nhân văn cao đẹp như vậy.
Tất cả những gian khổ thử thách, đối rét ốm đau mà nhà thơ đề cập đến trong suốt hai phần đầu bài thơ như một sự chuẩn bị tâm lí cho người đọc để đến khi tác giả nói về cái chế (phân 3) không gây nên cảm giác đột ngột. Tuy không đột ngột và mặc dù quá hiểu chiến tranh là thế – có thể ngã xuống bất cứ lúc nào song đọc những câu thơ của Quang Dũng, chúng ta vẫn thấy hẫng, một cảm giác chơi vơi khó gọi tên nhưng hiện hữu rất rõ. Nhưng cũng chính những câu thơ ấy đã bất tử hóa cái chết, anh hùng hóa sự hi sinh để nâng đỡ cảm giác buồn, hụt hẫng, thành thử bi thương mà không bi lụy, bi ca chứ không phải khốc cá. Chính điều đó làm nên một khúc độc tấu bi tráng rền vang sông núi và lay động lòng người.
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ", mỗi người lính ngã xuống, những nấm mộ không tên mọc lên. Những nấm mộ đó rải rác khắp biên cương là dấu tích của biết bao nỗi buồn thầm lặng. Nhà thơ nhìn xuyên suốt con đường hành quân của Tây Tiến mà lặng đi đến tê người khi trước mắt anh hiện lên những nấm mộ đồng chí, đồng đội.
Câu thơ sau nhanh chóng gạt đi những cảm giác bi thương giống như có một lực đẩy vô hình:
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Câu thơ vừa mang dáng dấp cuộc ra đi "nhất khứ hề" của Kinh Kha tráng sĩ vừa mang âm hưởng của những cuộc ra đi trong thơ lãng mạn VIệt Nam trước cách mạng với những "li khách" của Thâm Tâm, "khách chinh phu" của Thế Lữ… Hơn nữa, các từ Hán Việt: "biên cương", "viễn xứ", "chiến trường"… có sức âm vang tạo nên tính cổ điển của hình tượng. Tuy nhiên, chất lãng mạn của câu thơ Quang Dũng là chất lãng mạn của cách mạng, lãng mạn anh hùng. Quang Dũng đá nói được một điều cốt lõi trong nhân cách người lính: biết hi sinh vẫn dấn thân, ra đi chẳng tiếc đời mình, tuổi thanh xuân đẹp nhất hiến dâng cho lí tưởng. Họ ngã xuống thanh thản, nhẹ nhàng thậm chí nụ cười vẫn nở trên môi thì thử hỏi làm sao ta dám khóc, làm sao ta dám để cho buồn đau đốn gục. Quang Dũng đã gạt nước mắt để ngẩng cao đầu với niềm tự hào, kiêu hãnh.
Hai câu tiếp theo cũng mang cảm hứng tương tự:
"Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Có người hiểu là lấy áo bào thay cho chiếu, có người lại hiểu là áo bào được thay bằng chiếu. Quang Dũng có lần tâm sự: ngay cả khi nằm xuống, người tử sĩ cũng không có manh chiếu liệm. Nói áo bào thay chiếu là cách nói của người lính chúng tôi, cách nói ước lệ của thơ trước đây để an ủi những đồng chí của mình đã ngã xuống giữa rừng". Thế là đã rõ. Không có chiến bào. Thậm chí không có cả chiếu liệm. Thảm lắm! Thảm lắm! Nhưng không thể để đau thương, cái buồn thảm quật ngã. Câu thơ độc đáo của Quang Dũng đã lãng mãn hóa cái chết. Đó là một sự ra đi nhẹ nhàng, thanh thản, ung dung với một vẻ đẹp hào hùng, oai phong và sang trọng. Giọng thơ như muốn hạ xuống cung bậc thấp nhất phù với nỗi tiếc thương. Nhưng hạ thấp để cuối cùng vút lên với cung bậc dữ dội và hùng trang:
"Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Những mất mát, đau thương như dồn nén, tích tụ trong tiếng gầm vang rung chuyển có núi rừng cảu dòng sông Mã. Những người lính Tây Tiến hi sinh là trở về với thiên nhiên, trở về với đất mẹ và các anh lại hóa thân vào thiên nhiên để hát mãi khúc quân hành.
Quang Dũng thật tinh tế và lãng mạn khi đang sống trong thời điểm ác liệt của cuộc chiến tranh với bao khó khăn gian khổ, nhưng ông vẫn có đủ dũng khí để viết lên những vần thơ hết sức bi tráng và hào hùng, thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời, tin chắc vào chiến thắng của dân tộc không chỉ của các chiến sĩ của binh đoàn Tây Tiến mà của toàn thể dân tộc.