Ở “ Vợ nhặt”, Kim Lân đã khắc họa rất thành công những nhân vật như bà cụ Tứ, anh cu Tràng, vợ Tràng, cùng cuộc sống khốn khổ, thê thảm của những con người giữa nạn đói năm 1945. Và để khắc họa rõ nét hình ảnh đó, chi tiết “ nồi cháo cám” dường như đẩy mạch truyện lên cao trào, phản ảnh thực tại khốn cùng về cái đói khổ, cùng với tình yêu thương và lòng vị tha của người mẹ lên cao nhất. Qua “ nồi cháo cám”, người đọc có thể tưởng tượng ra cảnh tượng nạn đói năm 1945 một cách chân thực, rõ nét nhất.
Câu chuyện nhặt được vợ của anh cu Tràng được tác giả khéo léo đưa chi tiết “ nồi cháo cám” vào để nói lên nỗi cơ cực, đường cùng của những con người đang phải sống trong nạn đói năm 1945. Và trong hoàn cảnh đó, tình yêu thương bao là của người mẹ cũng hiện lên thật rõ nét. Dù đang lúc đói khổ, thì tình yêu thương đó vẫn luôn âm ỉ cháy trong trái tim của những người mẹ.
Hình ảnh “ nồi cháo cám” xuất hiện trong một tình huống vô cùng đặc biệt. Không phải trong bữa ăn hàng ngày của một gia đình, mà lại xuất hiện ngay trong buổi sáng của lễ ra mắt cô con dâu mới. Bà cụ Tứ ngượng ngùng nói với cô con dâu” kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy nhưng nhà mình nghèo quá , cũng chả ai chấp nhặt gì lúc này.” Sự đói khổ, nghèo hèn khiến con người ta phải nghẹn ngào.
Mâm cơm dành cho nàng dâu mới trong nạn đói thật thê thảm, “ giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái ròi, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Cái đói, cái nghèo bao trùm thì ai cũng biết, nhưng họ nén ở trong lòng, cố không bộc lộ ra bên ngoài. Vậy nhưng trong bữa cơm ấy, tâm trạng của cụ Tứ vô cùng phấn khởi, không ủ rũ như mọi ngày. Bà nói rất nhiều chuyện vui, chuyện hay. Diễn biến tâm lý của người đàn bà nghèo khổ có sự thay đổi rõ rệt. Bà tuy nghèo, tuy khổ nhưng lại rất yêu chiều con, kể cả con dâu mới. Có thể thấy, bà cụ Tứ đang nói những lời vô cùng tốt đẹp, về một tương lai tươi sáng của chính gia đình mình, và của cả đất nước.
Rồi bà lật đật chạy xuống bếp, bưng lên nồi cháo cám. Nói với các con rằng: Chè khoái đấy, ngon đáo để; cám đấy mày ạ, xóm mình còn có khối người không có cám mà ăn ấy chứ.” Chi tiết này vô cùng đắt giá, gợi lên cái đói, nghèo đến cùng cực. Và dù ăn cháo cám nhưng cả ba người đều ăn rất ngon lành, vui vẻ. Có lẽ vì đây là nòi cháo đong đầy tình yêu thương của người mẹ. Chi tiết này khiến người đọc cảm thấy ấm áp, rằng dù trong hoàn cảnh nào thì tình mẹ vẫn luôn như vậy không bao giờ thay đổi, mẹ luôn hy vọng các con có một tương lai tươi sáng hơn.
Hình ảnh “nồi cháo cám” trong Vợ nhặt vừa có giá trị hiện thực sâu sắc, tái hiện lại cuộc sống con người nghèo khổ đến tận cùng của nạn đói năm 1945. Lại vừa mang giá trị nhân đạo khi nồi cháo cám ấy nói đến hình ảnh người mẹ với một sự đáng trân trọng và đầy yêu thương.
Và “ nồi cháo cám” còn mang giá trị nghệ thuật, đó là hình ảnh khiến cho cả câu truyện trở nên ấm áp hơn, về giấc mơ một tương lai tươi sáng của những con người trong nạn đói năm 1945.
Có thể thấy, hình ảnh nồi cháo cám để lại những ấn tượng vô cùng đậm nét trong tâm trí người đọc. Hình ảnh mang sức ám ảnh, chạm đến trái tim của những người yêu thích giá trị nhân đạo. Rằng dù giữa nạn đói năm 1945, những con người bằng tình yêu thương có thể vượt qua tất cả.
Kim Lân là một nhà văn tài năng và đặc biệt ông bén duyên với những tác phẩm mang tính chất rất giản dị đặc biệt là các tác phẩm về những số phận khó khăn. Tác phẩm “Vợ nhặt “ là một trong số những tác phẩm tiêu biểu mà trong đó tác giả đưa ra cho ta những cách nhìn rất chân thực về người nông dân trong cảnh đói nghèo ,tù túng. Tác phẩm đã thể hiện rát rõ hai giá trị,giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực rất sâu sắc.
Với tư cách là một nhà văn của nông thôn, Kim Lân là người rất hiểu người nông dân, lại là người trong cuộc của cái nạn đói khủng khiếp này, Vợ nhặt được tái hiện là một bức tranh cô đúc mà đầy đủ, khái quát mà cụ thể, khắc sâu thành ấn tượng rõ nét.
Qua tác phẩm ta có thể thấy bức tranh toàn cảnh về nạn đói khủng khiếp năm 1945 với cảnh người đói "bồng bế, dắt díu nhau xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ", "bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma", và sau đó là "người chết như ngả rạ", "thây nằm còng queo bên đường", "không khí vẩn lên mùi gây của xác người", rồi "mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt" và "tiếng hờ khóc tỉ tê trong đêm khuya"…như thế cái đói đó đã tràn đến xóm ngụ cư, ùa vào gia đình anh Tràng, bủa vây và đe dọa số phận từng con người, không trừ một ai.
Tác phẩm cũng vẽ ra “Bức tranh về số phận những con người trên bờ vực thẳm của nạn đói: "những khuôn mặt hốc hác u tối trong "cuộc sống đói khát", "không nhà nào có ánh đèn, lửa", đến cả trẻ con cũng ngồi ủ rũ dưới những xó đường không buồn nhúc nhích. Trong gia đình Tràng thì bà cụ Tứ già lão không làm được gì, anh con trai đẩy xe bò thuê để kiếm sống qua ngày, người con dâu "áo quần tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp hẳn đi, hai con mắt trũng hoáy, cái ngực gầy lép nhô hẳn lên"… Số phận của họ có khác gì "cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại” và bữa cơm ngày đói với nồi cháo cám "đắng chát và nghẹn bứ trong cổ"…
Vợ nhặt của Kim Lân còn là niềm khát khao tới cháy bỏng với tổ ấm gia đình trọn ven. Niềm khát khao tổ ấm gia đình được thể hiện chân thực và có chiều sâu qua tâm trạng nhân vật Tràng :từ trên bờ vực thẳm của cái chết, họ đã dám khát khao đến tổ ấm gia đình, đến một cuộc sông đích thực và cao đẹp của con người. Cho nên, tuy "chợn" khi nghĩ "thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng", nhưng Tràng vẫn "Chậc, kệ!" và dẫn vợ về nhà. Trong tác phẩm Vợ nhặt “Anh vừa xấu hổ lại vừa tự hào khi đưa vợ đi qua xóm ngụ cư, bởi vì có "một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy" dâng lên "ôm ấp, mơn man khắp da thịt..,"; và nhất là, trong buổi sáng đầu tiên khi có vợ, Tràng thấy cuộc đời mình bỗng nhiên thay đổi hẳn: "Hắn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng", "một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng", "bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này". Đây là đoạn văn đầy cảm hứng nhân đạo với các nhân vật của ông. Chính vì yêu thương chính vì khát khao có một mái ấm gia đình nên con người ta biết quí trọng những thứ xung quanh hơn.
Ở “Vợ Nhặt” giá trị hiện thực tuy chưa rõ nét nhưng đã hiện ra ở cuối truyện trong ý nghĩ của Tràng: "cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm". Đoàn người đi phá kho thóc Nhật và lá cờ của Việt Minh. Đây là hiện thực nhưng cũng là ước mơ của những người giống như Tràng.
Không những truyện thể hiện giá trị hiện thực mà còn là giá trị nhân đạo sâu sắc. ở đây chúng ta có thể nhận ra tình thương yêu giai cấp, sự cưu mang lẫn nhau của những người nghèo khổ được thể hiện rất cao đẹp và cảm động qua tấm lòng bà cụ Tứ đối với con trai và con dâu. Vượt lên tình thương con – nhất là đối với người đàn bà lạ bỗng nhiên thành con dâu mới – đó là tình thương yêu giai cấp của những người nghèo khổ. Bà cụ tứ đã gọi thị là "con", tôn trọng thị, nói chuyện thân mật với thị ngay đêm đầu gặp mặt. Và sáng hôm sau, bà cụ tứ cố tạo ra niềm vui cho con trai và con dâu vui. Trong tác phẩm” Chi tiết nồi cháo cám thật cảm động trong bữa cơm ngày đói đón dâu mới. Không chỉ là tấm lòng người mẹ thương con mà trong tình thương ấy còn có cả đức vị tha cao cả.
Truyện kết thúc với một cái kết đầy gợi mở đã tạo cho người đọc những cảm hứng trong tìm tòi và chiêm nghiệm. Dưới ngòi bút tài hoa của tác giả Kim Lân chúng ta có cơ hội đắm chìm trong không gian ấy, và nhận ra những vẻ đẹp của hai giá trị lớn: giá trị hiện thực sâu sắc và giá trị nhân đạo cao cả.