SÓNG
- Xuân Quỳnh -
* KHÁI QUÁT
1. Tác giả (1942 - 1988)
- Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ thời kỹ kháng chiến chống Mỹ. Thơ Xuân Quỳnh thể hiện trái tim phụ nữ đôn hậu, chân thành, giàu đức hy sinh và lòng vị tha. Trong thơ Xuân Quỳnh, khát vọng sống, khát vọng yêu chân thành, mãnh liệt luôn gắn liền với những dự cảm lo âu.
- Xuân Quỳnh là một phụ nữ gặp nhiều bất hạnh trong cuộc đời, là một tâm hồn phụ nữ nhạy cảm, nhân hậu, một nghệ sỹ tài năng, một con người giàu nghị lực để có thể vượt lên những gian truân, thử thách trong cuộc đời. Nhà thơ Vũ Tú Nam nhận xét: “Thơ Xuân Quỳnh trong sáng, cái trong sáng đã được gạn lọc qua những nỗi đau, đó là niềm kiêu hãnh và là biểu hiện sự quý trọng của chị đối với người đọc”
2. Tác phẩm :
2.1. Xuất xứ, vị trí:
- “Sóng” là một trong những bài thơ thành công nhất của Xuân Quỳnh về đề tại tình yêu. Bài thơ được viết năm 1967, in trong tập “Hoa dọc chiến hào” (1968).
- “Sóng” cũng là một trong những bài thơ thể hiện chân thực, gắn bó nhất vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ luôn khao khát được yêu thương, gắn bó, trái tim luôn trăn trở lo âu, luôn mong được dâng hiến và hy sinh cho tình yêu.
2.2. Kết cấu hình tượng:
Bài thơ là sự vận động và phát triển song hành của hai hình tượng “sóng” và “em”. “Em” là cái tôi trữ tình của nhà thơ, là hình tượng được miêu tả trong những cung bậc khác nhau của tình yêu. “Sóng” là hình tượng nghệ thuật được Xuân Quỳnh sáng tạo để diễn tả những cảm xúc, tâm trạng, những sắc thái tình cảm vừa phong phú, vừa phức tạp của một trái tim người phụ nữ đang rạo rực khao khát yêu đương. “Sóng” chính là hình ảnh ẩn dụ cho trái tim người phụ nữ đang yêu , là sự hóa thân thân phận của “em”. Hai hình tượng ấy khi phân đôi để soi chiếu sự tương đồng, khi hòa nhập để âm vang, cộng hưởng. Trái tim người phụ nữ đang yêu soi vào "sóng" để nhận ra mình, thông qua "sóng" để thể hiện những rung động, đam mê, khao khát... Hai hình tượng này đan cài, quấn quýt với nhau từ đầu đến cuối bài thơ, soi sáng cho nhau, nhằm diễn tả sâu sắc, thấm thía hơn những khát vọng tình yêu trào dâng mãnh liệt trong lòng nữ sỹ. Với hình tượng "sóng", bài thơ làm hiện lên hình ảnh người phụ nữ đứng trước đại dương, mang tâm thế của một cá thể đối diện với cái vô biên, vĩnh hằng, từ đó mà liên tưởng, suy tư, chiêm ngưỡng về tình yêu như một nhu cầu tự nhận thức, tự khám phá cái tôi trữ tình. Cảm xúc của bài thơ vì thế vừa sôi nổi, mãnh liệt, vừa có chiều sâu của triết lý.
2.3. Âm hưởng của bài thơ chính là âm hưởng của sóng, trước hết là sóng biển và sau đó là sóng lòng, là nhịp đập bồi hồi của trái tim người phụ nữ đang yêu. Thể thơ với những dòng thơ thường không ngắt nhịp, sự đắp đối các thanh bằng, trắc ở cuối mỗi câu thơ, khổ thơ, những từ ngữ trùng điệp, những cặp từ sóng đôi hô ứng, xô đuổi nhau từ cuối bài đã tạo nên âm hưởng dạt dào, nhịp nhàng, gợi nhịp điệu những con sóng miên man, bất tận, vô hạn vô hồi, khi ào ạt trào dâng, lúc êm đềm đằm lắng. Đó cũng đồng thời là nhịp đập của những con sóng lòng, những đợt sóng của đam mê khao khát và da diết yêu thương đang cuộn trào trong trái tim người phụ nữ.
ĐỀ 1
Phân tích bài thơ SÓNG - Xuân Quỳnh
Một nhà thơ cổ điển Pháp từng nói: “Tình yêu là điều mà con người không thể hiểu nổi.” Thật vậy, từ ngàn đời nay tình yêu luôn là điều bí ẩn, là đề tài vô tận của văn chương. Nhiều văn nhân thi sĩ đã mượn văn chương để lí giải tình yêu nhưng chẳng ai cắt nghĩa trọn vẹn hai mĩ từ ấy. Nhà thơ Xuân Diệu đã từng ví von “Yêu là chết trong lòng một tí”, Đỗ Trung Quân cũng từng thốt lên rằng “Anh đã thấy một điều mong manh nhất – Là tình yêu, là tình yêu ngát hương” và cũng không quên nhắc đến “Sóng” của nữ thi sĩ Xuân Quỳnh. “Sóng” là nơi gửi gắm những tâm tư sâu kín, những trạng thái phức tạp tinh vi của tâm hồn người thiếu nữ khi nói về tình yêu trẻ trung, nồng nhiệt gắn với khát vọng hạnh phúc muôn thuở của con người.
Xuyên suốt bài thơ là hình ảnh sóng. Đó là một hình ảnh ẩn dụ của tâm trạng người con gái đang yêu, là sự phân thân của cái tôi trữ tình Xuân Quỳnh. Cùng với hình tượng sóng, bài thơ còn có hình tượng Em. Hai nhân vật trữ tình này có lúc phân đôi ra để soi chiếu vào nhau làm nổi bật sự tương đồng, có lúc lại hòa nhập vào nhau tạo nên một âm vang. Xuân Quỳnh thật tài tình khi sáng tạo hình tượng sóng giàu giá trị thẩm mĩ để diễn tả tâm trạng, tình cảm với nhiều cung bậc sắc thái của một trái tim phụ nữ khao khát tình yêu và hạnh phúc.
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sóng không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Bắt đầu bài thơ là hình ảnh sóng nước. Đó là con sóng lúc thì dữ dội, ồn ào có thể phá tan tất cả trong những trận cuồng phong, nhưng lúc trời yên gió lặn thì sóng lại dịu êm, lặng lẽ. Sóng là vậy đấy, dữ đấy rồi êm đấy, chợt ồn rồi chợt lặng, sóng luôn biến đổi muôn hình vạn trạng. Nhưng có ai đã từng hỏi vì sao sóng lại thế? Vô ích thôi, đến ngay sóng cũng chẳng hiểu nổi mình, chỉ biết đó là những tâm trạng thường có. Sóng bối rối, trăn trở, sóng muốn hiểu được mình nên đã tìm ra tận bể, tìm ra tận nơi mênh mông rộng lớn, sâu thẳm vô cùng. Sóng nghĩ ở nơi như thế may ra sóng mới có thể hiểu mình.
Sóng nước mà cũng có những tâm trạng như con người vậy sao? Phải chăng mượn sóng là để làm biểu tượng cho người con gái? Miêu tả sóng với những đặc điểm kì lạ cũng là để nói tới cái đa dạng phức tạp, khó giải thích của người con gái mà đúng hơn là của tình yêu. Thế là sóng nước đã dần chuyển thành sóng tình. Giống như sóng, tình yêu là một khái niệm khó giải thích cho minh bạch. Tình yêu là vậy và khát vọng tình yêu của con người thì muôn đời không thay đổi
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
Sóng ngày xưa thế nào thì sóng ngày nay vẫn thế. Sóng nước là thế và sóng tình cũng chẳng khác gì. Tình yêu từ ngàn đời nay chẳng hề bất di bất dịch, đó là một quy luật của tự nhiên. Tình yêu không bó hẹp trong một phạm vi lứa tuổi nhưng tình yêu thường đi đôi với tuổi trẻ. Ở lứa tuổi mùa xuân của đời người, tình yêu phát triển mạnh mẽ nhất và mang đầy đủ ý nghĩa nhất. Tình yêu tràn đầy sức sống, làm bồi hồi trái tim trong ngực trẻ khiến trái tim lúc nào cũng thổn thức nhớ mong.
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
…………
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương
Sóng tìm ra tận bể để hiểu mình thì em đây cũng tìm đến tình yêu anh để hiểu sâu hơn về con người của em. Trước không gian bao la là biển cả, làm sao em không trăn trở với những câu hỏi có từ ngàn xưa, những câu hỏi vượt qua bao không gian thời gian, những câu hỏi giản dị, tự nhiên nhưng khó lí giải. Tất cả chúng như quấn lấy tâm hồn em làm cho em thao thức khôn nguôi. Em tự hỏi, giữa đại dương mênh mông ấy nơi nào là nơi bắt đầu của sóng? Khó mà trả lời cho chính xác nhưng vẫn có thể trả lời rằng “Sóng bắt đầu từ gió”. Vâng, không thể phủ định được điều đó, có gió mới có sóng thế nhưng “Gió bắt đầu từ đâu?” Lúc này thì khó mà trả lời được. Thế là ra tới tận bể rồi ấy vậy mà sóng cũng vẫn chưa hiểu nổi mình. Cũng như sóng, em đã hòa nhập vào biển lớn của tình yêu anh mà em nào đã hiểu được em. Em yêu anh từ đâu? Khi nào? Từ cái gì? Ánh mắt, nụ cười hay giọng nói? “Em cũng không biết nữa”. Mà biết để làm gì bởi anh và em chỉ cần hiểu rằng ta yêu nhau là đủ.
Trong tình yêu, ta vẫn thường thấy hai mặt yêu và nhớ, yêu say đắm thì nhớ thiết tha. “Con sóng dưới lòng sâu – Con sóng trên mặt nước” là những cung bậc khác nhau của nỗi nhớ anh. Dù trên mặt nước hay dưới lòng sâu thì con sóng vẫn đều có bờ. Bờ là nơi đến của sóng, là đối tượng để sóng vuốt ve, vỗ về, là cái đích để đi đâu về đâu sóng lúc nào cũng nhớ đến, cũng không quên, ngay cả đó là ngày hay đêm: “Ôi con sóng nhớ bờ – Ngày đêm không ngủ được”. Nỗi nhớ có cái biểu hiện ra bên ngoài có cái ẩn chứa tự sâu trong đáy lòng. Vắng anh, em nhớ, khi thức, em nhớ đến anh. Đó là biểu hiện bình thường. Nhưng ở đây, trong mơ em vẫn nhớ. Đó là nỗi nhớ mới da diết, khắc khoải, thổn thức cứ trằn trọc không yên: “Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức”. Tình yêu là vậy đấy!
Xưa nay, nỗi nhớ luôn gắn liền với khái niệm thời gian vô tận và không gian vô cùng. Với thời gian, nó không có ngày đêm; với không gian, nó không có phương hướng. Không gian có bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc nhưng tình yêu thì chỉ có một phương và đó chính là anh. Trong đời, em quen biết nhiều người, họ có thể hơn hẳn anh thế nhưng em lại chọn anh, yêu anh và chỉ biết có anh. Chỉ riêng anh là khiến em luôn nghĩ tới và hướng về: “Nơi nào em cũng nghĩ – Hướng về anh một phương”. Những người đang yêu bao giờ cũng hướng về nhau, họ là mặt trời suốt đời soi sáng và sưởi ấm cho nhau.
Tình yêu đẹp là vậy, trong sáng là vậy, mãnh liệt bay bổng là vậy nhưng nó không tránh khỏi những dâu bể của đời thường. Chính vì thế những người đang yêu ngoài sự say mê còn phải có đủ nghị lực và lí trí để vượt qua mọi thử thách, giông bão của cuộc đời với niềm tin sẽ tới đích.
Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Những con sóng ở đại dương dù gió xô bão táp tới phương nào đi chăng nữa thì cuối cùng sóng vẫn trở về với bờ. Em cũng như sóng, cho dù gặp bao khó khăn em cũng sẽ vượt qua hết để đến với anh, bởi tình yêu anh đã cho em sức mạnh như ông bà xưa có câu:
Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
Ngũ lục sông cũng lội, thất bát cửu thập đèo cũng qua.
Đẹp là thế, thiêng liêng là thế nhưng tình yêu cũng lại là thứ ngắn ngủi, mong manh và khó giữ.
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.
Bởi thế khi yêu con người luôn khắc khoải, trăn trở. Nỗi trăn trở đã thành bức bách, thôi thúc: Làm sao được tan ra, thành trăm con sóng nhỏ trong đại dương bao la, vô tận kia để được tồn tại mãi, sống mãi và yêu mãi. Tình yêu bùng lên thành khát vọng. Khát vọng sôi sục mà vẫn khiêm nhường, đầy nữ tính.
Thơ Xuân Quỳnh là tiếng thơ vừa dịu dàng vừa sâu lắng vừa dữ dội lại vừa thiết tha. Nhớ tới chị chúng ta càng thêm trân trọng những thi phẩm đặc sắc của chị. Cùng với “Thuyền và biến”, “Sóng” là những bài ca không thể nào quên của tuổi trẻ và tình yêu. Xin cảm ơn nữ thi sĩ đã hiến dâng cho đời những vần thơ đẹp về tình yêu con người và cuộc sống.
ĐỀ 2
Phân tích và cảm nhận hình tượng sóng và em trong bài thơ Sóng (Xuân Quỳnh), nét đẹp tâm hồn người phụ nữ khi yêu được thể hiện trong các cung bậc cảm xúc của tình yêu.
Ở mỗi tập thơ Xuân Quỳnh những bài thơ viết về tình yêu thường để lại cho chúng ta rất nhiều ấn tượng khó quên. Trong đó có bài thơ "Sóng" - bài thơ tình duy nhất in trong tập thơ "Hoa dọc chiến hào" được nhiều người yêu thích bởi cái dạt dào sôi nổi mà sâu lắng thiết tha trong tình yêu. Bài thơ sáng tác vào năm 1967 nhân dịp nhà thơ đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền đã nói lên được tâm hồn người phụ nữ khi yêu, khao khát được yêu và sự tin tưởng vào tình yêu nhưng cũng đầy suy tư, trăn trở trước tình yêu của chính mình.
Bài thơ có nhan đề là "Sóng", đó vừa là sóng biển nhưng đồng thời cũng chính là những con sóng lòng của tâm hồn người phụ nữ khi yêu. Cùng với hình tượng "sóng" thì trong bài thơ còn xuất hiện hình tượng "em". Sóng là ẩn dụ của tâm hồn người con gái khi yêu, là sự hóa thân, phân thân của cái "tôi" trữ tình. "Sóng" và "em" tuy hai mà một, có lúc phân đôi để soi chiếu vào nhau, để tìm ra sự tương đồng, có lúc lại hòa làm một để tạo nên âm vang cộng hưởng. Hai hình ảnh cứ đan xen, quấn quýt, hòa quyện song song và xuất hiện từ đầu cho tới cuối bài thơ. Tất cả đều thể hiện khát vọng tình yêu, khát vọng trào dâng trong tâm hồn người phụ nữ khi biết yêu.
Cái hay của bài thơ còn thể hiện ở âm điệu. Âm điệu được xây lên bởi những câu thơ năm chữ, nhịp điệu phóng túng, linh hoạt và với những nét nghệ thuật hô ứng tương xứng trùng điệp... nó đã khiến cho người đọc cảm nhận được âm điệu của những con sóng biển dạt dào, sôi nổi lúc thì nhịp nhàng, êm ái. Tuy nhiên, bài thơ còn giúp cho người đọc cảm nhận được âm điệu tâm hồn người con gái khi yêu chính là nỗi lòng đang tràn ngập khát khao yêu thương, một nỗi lòng đang chứa chan biết bao cung bậc tình cảm. Mọi thứ ấy có sự hòa quyện và đã tạo nên vẻ đẹp giàu tiếng nhạc cho bài thơ.
Hai khổ thơ đầu là hình ảnh con sóng và trạng thái khát vọng của một tình yêu:
"Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ".
Mở đầu bài thơ là hai câu thơ xuất hiện rất nhiều những tính từ tương quan đối lập nhau: "dữ dội - dịu êm, ồn ào - lặng lẽ". Những tính từ này đã gợi ra các trạng thái của sóng ở hai chiều tương phản, lúc thì rất dữ dội, lúc thì lại rất hiền dịu, lúc thì đầy âm thanh, lúc thì lại đầy sự tĩnh lặng. Quan hệ từ "và" cùng với vị trí của các tính từ đã làm nổi bật sự chuyển động, chuyển hóa không ngừng của sóng theo thời gian. Hai câu thơ cũng chính là phép ẩn dụ để nói về trạng thái tâm hồn của người phụ nữ khi yêu, lúc thì sôi nổi cuồng nhiệt, lúc thì đầy dịu dàng, sâu lắng. Hai trạng thái tình cảm này cũng luôn có sự chuyển động, chuyển hóa cho nhau. Cái hay của câu thơ là từ trạng thái của sóng, tác giả đã phát hiện ra bản chất của tâm hồn người con gái khi yêu đầy nữ tính.
Hai câu thơ tiếp là sự bứt phá của sóng trong cái không gian nhỏ hẹp để tìm nơi rộng hơn. Vẫn tiếp tục nói về sóng mà Xuân Quỳnh đã thể hiện sự băn khoăn, trăn trở của sóng và sự băn khoăn đó thể hiện với hai câu thơ: "Sông không hiểu nổi mình - Sóng tìm ra tận bể". Ở đây, tác giả đưa ra hai môi trường tương phản nhau. "Sông" - một không gian hẹp, chật chội nhưng cũng là nơi khởi nguồn của sóng, nơi mà sóng tồn tại. Đối lập với sự chật hẹp của "sông" là một không gian rộng lớn của biển cả mênh mông. Ở câu thơ "Sóng tìm ra tận bể", tác giả không dùng từ "biển" mà lại sử dụng từ "bể", vì từ "bể" là âm mở đã giúp chúng ta cảm nhận không gian vô cùng, vô tận của biển khơi mà đây chính là môi trường sóng đang hướng tới. Động từ "tìm" chính là cách nhân hóa để từ đó tác giả khiến cho sóng trở thành một sinh thể như con người và sóng cũng có hành động táo bạo, khát khao và mãnh liệt. Hai câu thơ như là một triết lí. Nói về sóng để tác giả nối về quan niệm tình yêu. Trong tình yêu khi cần thì người con gái cũng có thể từ bỏ những gì là ích kỉ, nhỏ nhen để đạt đến một tình yêu lớn lao và cao thượng, để tìm cho nhau sự đồng điệu, đồng cảm trong tâm hồn.
sóng, xuân quỳnh
Giống như "sóng", tình yêu là một hiện tượng, một khái niệm khó lí giải cho rõ ràng. Một nhà thơ cổ điển Pháp từng nói: "Tình yêu là điều mà con người không thể hiểu nổi". Xuân Diệu cũng đã từng băn khoăn, bối rối: "Làm sao cắt nghĩa được tình yêu ?". Khát vọng tình yêu xôn xao, rạo rực trong trái tim nhà thơ, trong trái tim tuổi trẻ cũng là khát vọng muôn đời của nhân loại. Cũng như "sóng", nó mãi trường tồn, vĩnh hằng với thời gian. Từ ngàn xưa, con người đã đến với tình yêu và mãi mãi là như vậy.
"Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế".
Hai câu thơ này, tác giả đã khái quát lên hình ảnh "con sóng" của "ngày xưa" và của "ngày sau", con sóng của quá khứ, con sóng ở hiện tại và tương lai, để từ đó đã nói lên được cái thời gian bao hàm cái muôn đời. Sóng của quá khứ của ngày xưa đã được biết đến, nhưng con sóng của ngày nay thì ra sao ? Sóng "vẫn thế". Những con sóng muôn đời sau vẫn luôn tồn tại ở các trạng thái đối lập nhau, vẫn "dữ dội", vẫn "dịu êm"... Và con người khi yêu luôn có một "khát vọng tình yêu" mãnh liệt:
"Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ".
Khát vọng tình yêu luôn tươi trẻ, rạo rực, "bồi hồi" trong trái tim người phụ nữ và đây cũng là khát vọng tình yêu chính đáng. Cái hay của đoạn thơ là nhà thơ đã đem đến cho hình tượng sóng và khát vọng tình yêu ý nghĩa của lịch sử và chiều sâu quy luật từ ngày xưa tới ngày sau. Có lẽ vì vậy mà sóng luôn luôn rất trẻ trung và hồn thơ của Xuân Quỳnh vì thế mà rất trẻ trung.
Nếu hai khổ thơ đầu sóng là đối tượng cảm nhận thì ở hai khổ thơ tiếp theo sóng trở thành đối tượng suy tư:
"Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên ?
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau".
Khổ thơ đã mở ra một không gian bao la vô cùng và vô tận. Trong không gian đó xuất hiện người con gái trước "muôn trùng sóng bể" với bao trăn trở, suy tư. Ở khổ thơ ta bắt gặp điệp ngữ "em nghĩ về" xuất hiện hai lần cùng với những câu hỏi tu từ triền miên như những đợt sóng vô cùng vô hạn. Đó cũng chính là sự trải lòng của người con gái trước biển về biển lớn, về anh và em. Thực ra là về thế giới tự nhiên và về thế giới nội tâm con người. Những câu hỏi hướng về thế giới tự nhiên: "Từ nơi nào sóng lên ?", "Gió bắt đầu từ đâu ?" và câu hỏi hướng về thế giới tâm hồn con người "Khi nào ta yêu nhau". Những băn khoăn, trăn trở về thế giới tự nhiên có lúc lí giải được nhưng khó có thể truy tìm được cội nguồn của nó, bởi tự nhiên còn có nhiều điều bí ẩn và những băn khoăn về cội nguồn tình yêu lại càng là một điều bí ẩn hơn. Bởi vậy, ở khổ thơ đã xuất hiện câu thơ phủ định "Em cũng không biết nữa" để thể hiện sự bất lực của cái tôi Xuân Quỳnh trước cội nguồn của thế giói tự nhiên và nội tâm con người. Điều đó chứng tỏ tình yêu từ xưa tới nay đã trở thành điều rất thiêng liêng, diệu kì và huyền bí.
Từ suy tư, trăn trở trong tình yêu để rồi nỗi nhớ dào dạt ùa về ở khổ thơ tiếp theo:
"Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức".
Trong khổ thơ xuất hiện nhiều điệp từ "con sóng" lặp đi lặp lại tạo thành rất nhiều con sóng trùng điệp liên tiếp xô bờ. Sóng tồn tại ở nhiều hình thức, có con sóng "dưới lòng sâu" thẳm của đại dương, có những con sóng "trên mặt nước" có thể nhìn thấy bằng mắt. Cho dù là sóng ở đâu thì cũng tuân theo một quy luật chung vốn có của nó - sóng vỗ bờ. Và rồi những con sóng của tự nhiên tự lúc nào đã biến thành con sóng tâm trạng để cũng có nỗi nhớ như con người. Hơn nữa, nỗi nhớ của sóng còn là nỗi nhớ da diết khắc khoải, đó là nỗi nhớ choáng ngợp mọi không gian, đó là bề sâu, bề rộng của nỗi nhớ . Nó còn bao trùm bởi thời gian của "ngày đêm". Tác giả đưa ra thời gian vô cùng, không gian vô tận khiến cho nỗi nhớ trở lên vô hồi vô hạn, triền miên tưởng chừng không bao giờ dứt. Nhịp thơ nhanh, sôi nổi, hăm hở đã thể hiện được rõ hơn nỗi nhớ mãnh liệt của sóng hướng tới bờ.
Không chỉ có sóng nhớ nhung mà "em" cũng đầy nỗi nhớ: "Lòng em nhớ đến anh - Cả trong mơ còn thức". Nỗi nhớ của người con gái chính là nỗi nhớ xuất phát từ tận cõi lòng, từ tận trái tim. Nỗi nhớ ấy không chỉ chiếm chọn thời gian "ngày đêm", cũng không chỉ là nỗi nhớ trong ý thức mà nó còn là nỗi nhớ ăn sâu trong tiềm thức. Nỗi nhớ đã chiếm chọn cả giấc mơ và đủ thấy nó da diết khắc khoải đến mức độ nào.
Khổ thơ tiếp:
"Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương".
Ở khổ thơ này tác giả sử dụng lối nói giả định để nói về hoàn cảnh vô cùng khó khăn, cách trở. Dù phải bươn trải ngược xuôi trong cuộc đời bao la rộng lớn để tìm kế mưu sinh, phải vẫy vùng trong phương bắc, phương nam rất rộng dài nhưng trái tim người con gái luôn luôn nghĩ về người mà mình yêu. Đó chính là lòng chung thủy. Cách giả định của tác giả chính là lời khẳng định sự thủy chung duy nhất để khẳng định sự bất biến trước vạn biến của cuộc đời.
Xuân Quỳnh không chỉ mượn sóng để nói về người con gái khi yêu mà còn dùng lối nói đối sánh giữa sóng và em để nói về nỗi nhớ của em và bởi vậy nỗi nhớ của em càng nhân lên gấp bội. Từ nỗi nhớ xuất hiện một niềm tin mãnh liệt:
"Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở".
Khổ thơ tác giả không chỉ phát hiện ra quy luật của sóng: dù gió to bão lớn thế nào thì con sóng "đại dương", con sóng biển khơi xa cũng hướng "tới bờ" mà tác giả còn nói về hành trình tìm đến bến bờ hạnh phúc, dù khó khăn gian khổ nhưng vẫn thủy chung. Người con gái khi yêu vượt mọi khó khăn cản trở để đi tìm bến đỗ của tình yêu, bến bờ hạnh phúc.
Hai khổ thơ kết bài thơ đọng lại một sự suy tư sâu sắc và khát vọng mãnh liệt của tình yêu. Giọng thơ đang sôi nổi, hăm hở đột nhiên trùng xuống thấm đẫm suy tư:
"Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa".
Có rất nhiều nỗi niềm, rất nhiều trăn trở nhưng còn đọng lại trong câu thơ buồn đó là sự suy tư về "cuộc đời", về "năm tháng", về vũ trụ vô tận vô cùng. Để rồi, tự lúc nào tứ thơ đã thể hiện sự lo âu của Xuân Quỳnh về cái hữu hạn của đời người trước cái vô tận của thiên nhiên vũ trụ. Từ lo lắng nhưng dường như nhà thơ cũng cảm nhận được một điều rằng: đến với tình yêu, sống hết mình với tình yêu thì con người mới trở nên bất tử vĩnh hằng.
Kết lại bài thơ bằng bốn câu thơ tuy vẫn theo mạch lô-gic bình thường là nói về hình tượng sóng, nhưng đối tượng "biển lớn tình yêu" đã biến sóng đại dương thành sóng tình. Từ đó, tác giả đã thể hiện khát khao của nhà thơ Xuân Quỳnh - một người ẩn trong sóng để nói về khát vọng tình yêu của chính mình:
"Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ".
Xuân Quỳnh đặt ra một câu hỏi: "Làm sao được tan ra...", câu hỏi đó một lần nữa lại cho ta thấy sự suy tư, nỗ lực đi tìm kiếm ra lời giải đáp. Qua đó thể hiện khát vọng của chính mình, khát vọng trở lên mãnh liệt rất nhiều. "Tan" là một động từ mạnh, nó thể hiện khát khao mãnh liệt và khát khao được hòa nhập vào "biển lớn tình yêu", của nhân loại. Khát vọng đó thật đáng quý biết bao, khát vọng được được cống hiến vẻ đẹp cho nhân loại. Cũng như sóng để trường tồn với thời gian thì tình yêu cũng phải dâng hiến, phải từ bỏ sự ích kỉ để tìm đến tình yêu lớn lao, cao đẹp để mãi "còn vỗ" với những con sóng đại dương. Những câu thơ cuối thể hiện được khát vọng tình yêu của cái tôi Xuân Quỳnh đầy nữ tính, sống hết mình vì tình yêu và khát khao một tình yêu vĩnh hằng, bất tử với thời gian, với vũ trụ.
Gấp trang thơ lại rồi nhưng trong lòng người đọc vẫn còn nghe thấy những con sóng đại dương vỗ bờ, những con sóng tình trong ngực trẻ của tình yêu lứa đôi dường như vẫn không bao giờ ngừng nghỉ. Nó vẫn hát tiếp bài ca muôn thuở ngàn đời như những con sóng biển khơi luôn xô bờ. Bài thơ "Sóng" của nữ thi sĩ Xuân Quỳnh luôn sống mãi với thời gian, với những con người luôn khát khao một tình yêu tuổi trẻ.
ĐỀ 3
Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh
Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ nữ khá nổi tiếng, xuất hiện trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Xuân Quỳnh có một giọng thơ rất duyên, vừa đằm thắm, vừa dịu dàng như chính tính cách của chị.
Đề tài tình yêu luôn thu hút nhiều thi nhân. Tất cả là để tìm câu trả lời cho tình yêu là gì và tình yêu bắt đầu từ đâu. Với Xuân Diệu: Làm sao định nghĩa được Tình yêu… Xuân Quỳnh đến với thơ tình là để bày tỏ niềm khao khát về một tình yêu lý tưởng, lại vừa hướng tới một hạnh phúc đời thường giản dị và thiết thực. Hình tượng “sóng” trong bài thơ đã thể hiện thật sinh động và hấp dẫn tâm trạng của người con gái đang yêu, bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu.
Phân tích hình tượng sóng để cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu:
* Hình tượng “sóng” và “em”:
Những khổ thơ đầu tiên nhân vật trữ tình đang đối diện với sóng, cảm nhận về sóng, tìm thấy mối liên hệ giữa sóng và khát vọng tình yêu.
– Hình tượng sóng ở khổ thơ đầu mang ý nghĩa tượng trưng cho tính khí và bản lĩnh của người phụ nữ. Con sóng là hiện thân của các đối cực dữ dội – dịu êm – ồn ào – lặng lẽ. Con sóng trung thực và thẳng thắn: khi sóng không hiểu nổi mình thì con sóng tìm đến biển, đến chân trời thoáng rộng, tự do.
– Con sóng cũng tượng trưng cho khát vọng tình yêu nuôn đời của tuổi trẻ. Con sóng ngàn đời nay vẫn thế, cứ đập vỗ vô hồi vô hạn. Tình yêu cũng vậy, luôn đồng nghĩa với tuổi trẻ. Tất cả chúng tồn tại vĩnh hằng trên mặt đất này.
– Đứng trước sóng biển trùng trùng lớp lớp – nhân vật trữ tình (em) cảm nhận về nguồn gốc bí ẩn của tình yêu với hai câu hỏi: Sóng bắt đầu từ gió – gió bắt đầu từ đâu? khi nào ta yêu nhau?
không ai có thể trả lời cặn kẽ được câu hỏi này.
Đó chính là nỗi bí ẩn của tình yêu và cũng vì càng bí ẩn nên càng say đắm, hấp dẫn hơn.
– Khi con người đối diện trước thiên nhiên rộng lớn như biển khơi rất dễ sinh ra cảm giác nhỏ nhoi, bất lực, thậm chí rơi vào cảm giác hư vô. Nhưng với tâm hồn nữ tính mang khát vọng tình yêu mãnh liệt thì Xuân Quỳnh hướng tất cả vào tình yêu trần thế.
* Hình tượng “sóng” và “em” bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ:
– Sóng tượng trưng cho nỗi nhớ của người phụ nữ khi yêu, nhớ mọi nơi (không gian) lòng sâu, mặt nước, nhớ mọi lúc (thời gian) “Ngày đêm không ngủ được”, cũng như thế em nhớ anh đến nỗi “cả trong mơ còn thức”. Nghe qua có vẻ mơ hồ, vô lý. Nhưng không, em lúc nào cũng nhớ đến anh, trong mơ, khi thức, khi ngủ, khi tỉnh, khi mơ. Nhớ chính là biểu hiện của tình yêu, khi hết nhớ, cũng là lúc tình yêu chấm dứt.
– Nhà thơ tiếp tục một cách nói rất lạ: “Dẫu xuôi về phương bắc – Dẫu ngược về phương nam”. Đây là cách nói ngược với cách nói thông thường (ngược bắc xuôi nam). Nhà thơ cố ý lạ hóa ngôn từ để gây ấn tượng. Sự tinh tế nằm ngay trong cái nghịch lí của tình yêu.
Hơn nữa, đối với em, đâu chỉ có hai phương bắc và nam, mà còn có thêm một phương anh nữa, phương này là phương của tình yêu đôi lứa, là không gian của tương tư.
– Cũng như Sóng, dù muôn vàn cách trở rồi cuối cùng cũng đến được bờ, “Em” ở đây, trên hành trình đi tìm hạnh phúc, cho dù gặp lắm chông gai, trắc trở, nhưng tin tưởng rồi “Em” cũng sẽ tới đến bến bờ hạnh phúc.
– Cuộc đời tuy dài rộng, biển tuy vô tận bao la, nhưng tình yêu vẫn được cảm nhận thật cụ thể trong từng ngày tháng. Sống trong tình yêu con người không bao giờ cảm thấy hư vô mà cuộc đời luôn mới mẻ, đầy ý nghĩa.
– Cũng như sóng giữa biển lớn tình yêu. Em cũng muốn có được một tình yêu lớn lao, bất tử. “Em” nhân vật trữ tình ở đây bỗng vụt lớn để sánh ngang với biển cả. Quả là một nỗi khao khát lớn lao và cảm động.
Quả thật, hình tượng sóng của bài thơ đã thể hiện vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu vừa tha thiết say đắm, vừa duyên dáng, nồng nàn mà vô cùng trong sáng cao đẹp của tình yêu đôi lứa muôn đời.
* Nét đặc sắc về nghệ thuật:
– Sự liên tưởng hợp lí, tự nhiên giữa đặc điểm của sóng và đặc điểm của người con gái đang yêu. Sự liên tưởng này tạo nên hai hình tượng song song, nhưng hai mà một.
– Câu thơ năm chữ với những câu ngắn, đều nhau, tạo nên một ý niệm về hình thể của các con sóng, như con sóng dâng trào nhưng có khi chậm rãi nhẹ nhàng như lúc sóng êm biển lặng.
– Nhịp điệu của các câu thơ thật đa dạng, mô phỏng cái đa dạng của nhịp sóng : 2/3 (dữ dội và dịu êm – Ồn ào và lặng lẽ). 1/2/2 (sông không hiểu nỗi mình – sóng tìm ra tận bể), 3/1/1 (Em nghĩ về anh, em), 3/2 (Em nghĩ về biển lớn – từ nơi nào sóng lên),v.v…
– Các cặp câu đối xứng xuất hiện liên tiếp, câu sau thừa tiếp câu trước, tựa như những đợt sóng xô bờ, sóng tiếp sóng dào dạt.
– Âm điệu của bài thơ với nhiều sắc điệu đa dạng, phong phú, tạo nên vẻ tự nhiên cho bài thơ.
– Ngoài ra còn phải kể đến tính chất nữ tính trong cách diễn đạt của Xuân Quỳnh, trong cách nhìn sóng của chị: thật dịu dàng đằm thắm nhưng cũng thật dữ dội.
Sóng là hình ảnh ẩn dụ của tâm trạng người con gái đang yêu, là sự hóa thân, phân thân của cái “tôi” trữ tình của nhà thơ. Cùng với hình tượng “Sóng”, không thể không xem xét nó trong mối tương quan với “Em”.
– Hình tượng sóng trước hết được gợi ra từ âm hưởng dào dạt, nhịp nhàng của bài thơ. Đó là nhịp của những con sóng trên biển cả liên tiếp, triền miên, vô hồi, vô hạn. Đó là âm điệu của một nỗi lòng đang tràn ngập, đang khát khao tình yêu vô hạn, đang rung lên đồng điệu, hòa nhập với sóng biển.
– Qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã diễn tả vừa cụ thể vừa sinh động nhiều trạng thái, tâm trạng với những cung bậc tình cảm khác nhau trong trái tim của người phụ nữ đang rạo rực khao khát yêu đương. Mỗi trạng thái tâm hồn cụ thể của người con gái đang yêu đều có thể tìm thấy sự tương đồng của nó với một khía cạnh, một đặc tính nào đó của sóng.
Qua bài thơ Sóng, ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu. Người phụ nữ ấy mạnh bạo, chủ động bày tỏ những khát khao yêu đương mãnh liệt và những rung động rạo rực trong lòng mình. Người phụ nữ ấy thủy chung, nhưng không còn nhẫn nhục cam chịu nữa. Nếu “sóng không hiểu nổi mình” thì sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó để “tìm ra tận bể”, đến cái cao rộng, bao dung..Đó là những nét mới mẻ ” hiện đại” trong tình yêu.
Tâm hồn người phụ nữ đó khao khát, không yên lặng. “Vì tình yêu muôn thuở – có bao giờ đứng yên” (Thuyền và Biển). Nhưng đó cũng là một tâm hồn thật trong sáng, thủy chung vô hạn. Quan niệm tình yêu như vậy rất gần gũi với mọi người và có gốc rễ trong tâm thức dân tộc