NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ- NGUYỄN TUÂN

  1. Tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm
  • Vị trí: Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại, là một nhà trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc.
  • Trước Cách mạng, ông đi tìm cái đẹp thời xưa còn vương xót lại mà ông gọi là Vang bóng một thời ( ví dụ Chữ người tử từ)
  • Sau Cách mạng, ông hướng tới những không gian rộng lớn để đi tìm chất tài hoa nghệ sĩ ở nhân dân. Theo Nguyễn Tuân, đó chính là chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc cùng “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn của những con người lao động.
  • Từng là một nhà báo, có vốn sống và vốn hiểu biết khá sâu rộng, những trang viết của Nguyễn Tuân cũng vì thế mà chứa những kiến thức đa dạng, nhiều mặt về cả lịch sử, địa lí, hội họa, âm nhạc...

Phong cách của Nguyễn Tuân:

Uyên bác, tài hoa, không quản nhọc nhằn để cố gắng khai phá kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề nhằm tìm ra những chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả năng làm lay động người đọc nhiều nhất.

  • Người lái đò Sông Đà được trích trong tùy bút Sông Đà(1960), được Nguyễn Tuân thu hoạch được trong chuyến đi thực tế gian khổ và hào hứng miền Tây Bắc. Mục đích chính cũng là cảm hứng chủ đạo của cả tập tùy bút là tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và nhất là chất vàng mười thứ vàng mười đã qua thử lửa ở tâm hồn những con người lao động, chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng. Viết Sông Đà, nhà thơ muốn đề thơ, phổ nhạc vào sông nước quê hương. Cảm hừn sống Đà đã trở thành một “ gợi cảm mênh mang về sông nước và con người Việt Nam.

Có thể tham khảo:

“ Nguyễn Tuân là một nhà tùy bút lớn. Sự nghiệp sáng tác của ông phong phú và đạt được sự cân bằng giữa hai thời kì lịch sử trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945. Qua cái mốc ấy, tư tưởng và phong cách của ông tất nhiên có những biến đổi nhất định. Nhưng dù biến đổi thế nào, vẫn trên một căn bản thống nhất của một cái tôi rất Nguyễn Tuân: tài hoa, uyên bác, thích cảm giác mạnh, suốt đời say mê đi tìm và diễn tả cái đẹp

Người lái đò Sông Đà rút trong tập Sông Đà (1960)- một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, tùy bút của Nguyễn Tuân ngày càng thêm chất kí. Nghĩa là tư liệu rất phong phú, bề bộn, nhất là tư liệu về địa lí, lịch sử, dân tộc học. Nhưng dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, những tư liệu ấy trở thành hình tượng sống động, thành những sinh thế, những nhân vật có linh hồn.

Vì vậy bài Tùy bút không chỉ có một nhân vật mà còn hai nhân vật: người lái đò và con sông Đà

  1. Những vấn đề cần lưu ý
  1. Lời đề từ:
  1. “ Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông” l
  • Tiếng hát của những con người ngày đêm gắn bó với dòng sông, rất yêu đời yêu nghề, yêu dòng sông
  • Tiếng hát của nhà thơ Ba Lan cũng chính là tác giả Nguyễn Tuân bộc lộ niềm tin yêu với thiên nhiên và con người Tây Bắc
  • Cảm hứng chủ đạo của bài được xác định: Tình yêu, sự say mê, niềm ngưỡng mộ sâu sắc của nhà văn cả 1 đời đi tìm cái đẹp trước vẻ đẹp của thiên nhiên và con người
  1. “ Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu”
  • Nét đặc biệt của Nguyễn Tuân: say mê khám phá vẻ đẹp phi thường của Sông Đà => tôn vinh cái đẹp
  • Lời giới thiệu độc đáo về sông Đà: nó không giống như những dòng sông khác, một mình chảy theo hướng bắc=> dáng vẻ ngỗ ngược, bản lĩnh, cá tính mạnh mẽ, khi được sinh ra ở núi cao Tây Bắc hay nói như Nguyễn Tuân: “Vì sông Đà quá yêu mến vùng đất Tây Bắc và đã xin nhập quốc tịch Việt Nam” để trở thành đứa con ngỗ nghịch của bà mẹ Tây Bắc.
  1. Tổng hợp mở bài và kết bài ( Tham khảo)

Mở bài:

Trực tiếp:

“ Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn hàng đầu của nền văn hoc Việt Nam hiện đại. Ông đặc biệt thành công ở truyện ngắn và tùy bút. Mỗi trang viết của Nguyễn Tuân đều bộc lộ sự tài hoa, tài tử, uyên bác. Người lái đò Sông Đà được rút từ tập Sông Đà (1960) là một trong những tùy bút xuất sắc nhất của Nguyễn Tuân. Nó là kết quả của chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của nhà văn với mục đích đi tìm chất vàng của thiên nhiên sông núi cùng thứ vầng mười_ vẻ đẹp của người dân lao động đang nhiệt tình xây dựng Đất nước. Hình tượng sông Đà là đại diện cho chất vàng màu sắc sông núi Tây Bắc với sự pha trộn vẻ đẹp vừa hùng vĩ dữ dội vừa trữ tình thơ mộng”

Gián tiếp:

+ Liên hệ tới hoàn cảnh lịch sử:

“ Tây Bắc ư ? có riêng gì Tây Bắc

Khi lòng ta đã hóa những con tàu

Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát

Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu.”

Chiến tranh qua đi trên mảnh đất Tây Bắc, vùng đất nơi đây lại trở về với vẻ đẹp thu hút con người khai phá và tìm tòi. Đã bao nhiêu con người quyết định đến với mảnh đất miền Tây để gắn bó và xây dựng nơi đây như quê hương thứ hai của mình. Hòa chung niềm cảm hứng ấy, Nguyễn Tuân cũng góp mình, hòa vào “ chuyến tàu lên Tây Bắc” ấy. Để rồi, Người lái đò Sông Đà ra đời, như một tiếng hát ca ngợi tôn vinh những vẻ đẹp của thiên nhiên và con người miền Tây. Ở đây, Nguyễn Tuân đã tập trung kiếm tìm một vẻ đẹp giàu chất tài hoa: đó là chất vàng, đặc biệt là chất vàng mười đã qua thử lửa ở tâm hồn người lao động đang nhiệt tình dựng xây đất nước....”

+ Đi từ đề tài về thiên nhiên:

Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

Mà khi về đất nước mình thi bắt lên câu hát” .

( Đất nước- Nguyễn Khoa Điềm)

Tổ quốc Việt Nam có trăm núi nghìn sông diễm lệ, có biết bao lời thơ, câu hát và trang văn đã cất lên để ngợi ca sông núi. Tuỳ bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân là một trường hợp như thế. Tác phẩm không chỉ thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật tài hoa độc đáo mà còn bộc lộ tấm lòng gắn bó sâu sắc của nhà văn đối với mảnh đất miền Tây Bắc tổ quốc. Bên cạnh hình tượng người lái đò trí dũng là hình tượng con sông Đà được khắc hoạ với hai nét tính cách tiêu biểu: hung bạo và trữ tình.

+ Dùng lí luận văn học:

Nhà văn Nguyễn Minh Châu thật có lí khi cho rằng: “ Nguyễn Tuân là một cái định nghĩa về người nghệ sĩ”. Vâng! là người nghệ sĩ chân chính nên Nguyễn Tuân luôn tìm mọi cách để kiếm tìm và phát hiện cái mới lạ, độc đáo trên cơ sở của vẻ đẹp ở đời. Tuỳ bút Người lái đò sông Đà là kết quả của hành trình bền bỉ và sáng tạo về vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên và con người Tây Bắc. Bằng sự tài hoa, uyên bác, Nguyễn Tuân đã khắc hoạ một dấu ấn không thể mờ phai về con sông miền Tây Bắc vừa hung bạo vừa trữ tình.

Kết bài:

 “ Bằng tình yêu thiên nhiên đất nước kết hợp với ngôn từ độc đáo, tài hoa, Nguyễn Tuân đã tái hiện lên một khung cảnh Tây Bắc thật hùng vĩ mà cũng thật trữ tình , làm ta thêm tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả là một quà tặng vô giá của thiên nhiên là một công trình nghệ thuật bậc thầy của tùy bút Nguyễn Tuân.”

HÌNH TƯỢNG SÔNG ĐÀ:

  • phân tích sông Đà qua hai phương diện: hung bạo và trữ tình.

Mở bài: - Giới thiệu chung về tác giả tác phẩm

  • Dẫn dắt vào vấn đề cần nghị luận

Thân bài:

  1. Tác giả tác phẩm => dẫn dắt đến hình tượng sông Đà
  2. Vấn đề cần nghị luận là hình tượng con sông: nổi bật ở hai vẻ đẹp hung bạo và trữ tình

Tham khảo:

“ Năm 1958, Nguyễn Tuân có dịp lên Tây Bắc để thực tế vùng đất và con người nơi đây. Chính vùng đất này đã để lại trong tâm hồn người nghệ sĩ ấy một “cố nhân”- Sông Đà. Năm 1960, tùy bút Sông Đà ra đời và thực sự người ta đã thấy một thiên tùy bút bậc thầy. Đặc biệt con sông Đà đã trở thành hình tượng nghệ thuật độc đáo.

Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, con Sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri vô giác nữa mà là một sinh thể đầy sống động, một nhân vật đầy sức sống và có tính cách hẳn hoi. Nó có hai nét tính cách đối lập với nhau- “ hung bạo và trữ tình”. Hai nét tính cách ấy đã khơi nguồn cảm xúc nghệ thuật của Nguyễn Tuân- một cây bút vốn luôn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc mới lạ, nồng nàn, say đắm. Chính vì thế, ngay từ lời đầu tiên của tác phẩm, tác giả đã dẫn hai câu thơ nổi tiếng của Nguyễn Quang Bích “ Chúng thủy giai đông tẩu- Đà giang độc bắc lưu” có nghĩa là “ Mọi dòng sông đều chảy về hướng Đông chỉ riêng sông Đà chảy về hướng bắc”. Đó chính nét ngang tàng khác lạ của dòng sống khiến người đọc không thể không đi sâu khám phá những trang tùy bút tài hoa viết về Đà giang của cụ Nguyễn. “

  1. Vẻ đẹp hung bạo:

Dẫn dắt:

Tham khảo:

 

Vẻ đẹp của sông Đà trước hết thể hiện ở vẻ đẹp hung bạo.

Về tính cách hung bạo của Sông Đà thì từ xa xưa ông cha ta đã diễn tả bằng biểu tượng Sơn Tinh- Thủy Tinh :” Núi cao sông hãy còn dài- Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”

Nguyễn Tuân thì không thể dùng lối nói huyền thoại như thế, ông phải dựng lên những bức tranh chân thực về những cảnh tượng hùng vĩ và dữ dội của con sông Đà khiến người đọc cũng phải rùng mình rợn tóc gáy trước cảnh thực. Ông đã tung ra biết bao chữ nghĩa đắt giá, biết bao thủ pháp có sức diễn tả mãnh liệt để quyết tâm một phen thi tài với Tạo hóa. Ấn tượng đầu tiên với Sông Đà, đó là những vách đá cao ngất cùng những quãng ghềnh cuồn cuộn nước chảy:

  1. Cảnh đá bờ sông dựng đứng vách thành:

“ Hùng vĩ của Sông Đà không chỉ có thác đá. Mà nó còn là cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới thấy mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu....”

      • + Sự oai nghiêm, sức mạnh bí ẩn đầy đe dọa của con Sông Đà với đá vách thành cao, vực thẳm như hào sâu
      • + Nghệ thuật so sánh độc đáo: “ Vách đá thành chẹt lòng sông như một cái yết hầu” => sự nguy hiểm của dòng sông, nơi hẹp như thế, lưu tốc dòng nước vốn nhanh. Cứ tưởng tượng xem con thuyền nào mà kẹt vào cái khe như thế, tiến cũng không được, lùi cũng không xong chỉ chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi.
      • + Liên tưởng độc đáo tạo ra ấn tượng tương phản của xúc giác với chi tiết ngồi khoang đò của quãng ấy, đang mùa hè mà cũng cảm thấy ớn lạnh tạo ra ấn tượng đặc biệt về thị giác khi lấy nhà cao gợi ra vách đá, gợi cho người đọc hình dung về cái tối tăm, lạnh lẽo đột ngột khi con thuyền trôi từ ngoài vào trong khúc sông ấy=> độ cao hun hút, thăm thẳm của vách đá
      • Tham khảo:
      • “ Nhà văn giới thiệu sông Đà qua những lời văn đầy ấn tượng. Sông Đà mang diện mạo tâm địa của “một thứ kẻ thù số một”. Điển hình cho thứ hiện mạo hung bạo của Sông Đà có lẽ là bờ sông hùng vĩ với “ đá dựng vách thành. Vách đá chẹn lòng sông như một cái yết hầu”. Nếu những con sông khác có bờ bãi êm đềm thơ mộng với “cát trắng phẳng lì” “ xanh xanh bãi mía bờ dâu ngô khoai biêng biếc” ( Hoàng Cầm) thì Sông Đà lại sừng sững vững trãi với  những vách núi cao dựng đứng ở phía thượng nguồn khiến dòng sông trở nên thật thâm nghiêm và bí ẩn. Những quãng lòng sông bị thắt hẹp lại, chẹt giữa những vách núi cao vút dựng đứng thì “ mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới thấy mặt trời”. Nhà văn liên tưởng tạo cho người đọc cảm giác như người đứng ở hè của một cái ngõ mà ngước lên khung cửa sổ tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt vụt đèn điện. Sự liên tưởng so sánh ấy làm tăng cảm giác về sự hun hút thăm thẳm của lòng sông qua cái nhìn rợn ngợp của người quan sát.”
  1. Quãng mặt ghềnh nước Hát Loóng :

“ dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy”

      • + Nhịp ngắt nhanh, ngắn, dồn dập, sự xuất hiện dày đặc các thanh sắc những hình ảnh điệp nối tiếp luân chuyển thế chỗ nhau trong cụm từ nước xô đá, đá xô sóng... đã tái hiện sinh động quần thể sức mạnh thiên nhiên dữ dội của nước, đá, sóng, gió Sông Đà.
      • + Điệp từ xô gây ấn tượng về sự chuyển động liên tiếp không dừng lại gợi sức mạnh khủng khiếp của thiên nhiên. Kết cấu ngôn ngữ đặc sắc như mô phỏng hình ảnh những con sóng dữ dội cuồn cuộn chồm lên nhau theo chiều ngang, vút lên cao theo chiều dọc rồi lại đổ ập xuống, trùng điệp ghê rợn trên mặt ghềnh.
      • + Biện pháp nhân hóa con sông như có linh hồn có tâm địa như một người “đòi nợ xuýt” => tác giả đã thể hiện sự hung hãn dữ tợn của con sông sẵn sàng lấy đi tính mạng của bất cứ tay lái nào khinh suất
      • + từ láy “ gùn ghè” đã thể hiện sinh động tính hung hãn, lì lợm và cuồng bạo của dòng sông ngày đêm hăm dọa, uy hiếp con người.

 

      • Tham khảo:
      • “ Sự hung bạo của Sông Đà còn thể hiện ở “ dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt”. Sử dụng điệp cấu trúc câu , phép nhân hóa , các câu ngắn nhịp gấp gáp gối lên nhau tầng tầng lớp lớp, nhà văn đã diễn tả được sự nối tiếp, luân chuyển xô đẩy của các thế lực nước, đá, sóng, gió Sông Đà. Tất cả tạo thành sức mạnh khủng khiếp dữ dội, để lật ngược bụng thuyền ra. Hình ảnh những con sóng cứ chồm lên, va vào vách đá, vút lên cao, vút lên cao rồi lại đổ ụp xuống. Thật khủng khiếp. Từ đây, người đọc có thể hình dung sự hung hãn tột cùng của con sông Đà với tâm địa hung hãn lì lợm, sẵn sàng lấy đi tính mạng của bất cứ thứ gì qua tay chúng.”
  1. Những cái hút nước:

“ Nước ở đây thở và kêu như cửa cống bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.”

      • +  Một loạt so sánh sống động, đặc sắc khiến cái hút nước hiện ra trong hình ảnh cái giếng bê tông xoáy tít, trong âm thanh ghê rợn của cửa cống cái bị sặc... hoặc trong hình ảnh và âm thanh khi tưởng tưởng ra mặt nước đâng bị rót dầu sôi- đó là những hình ảnh âm thanh cho thấy cả sức mạnh và sự hung bạo của những cái hút nước

+ Các từ láy tượng hình “ lừ lừ”, từ láy tượng thanh “ặc ặc” góp phần làm hiện ra cả hình ảnh và âm thanh của hút nước như một quái vật đang giận dữ đến ghê người

“ Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến mất đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.”

+ Sức mạnh ghê gớm của những cái hút nước nuốt trọn tất cả những gì vô tình rơi vào nó

“ Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút Sông Đà- từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mạch sông chênh nhau tới một cột nước cao tới vài sải....”

+ Cái hút nước được miêu tả bằng thủ pháp điện ảnh, góc nhìn ấn tượng khi hất ngược lên một cách sống động , truyền cảm từ hình khối của một thành giếng xây bằng nước cho đến màu sắc của dòng sông nước xanh ve, thậm chí cho đến cả cảm giác sợ hãi chân thực của con người khi phải đứng trong lòng một khối pha lê xanh như sắp vỡ tan và bất cứ lúc nào cũng có thể đổ ụp xuống người.

  • Thủ pháp nhân hóa liên tưởng so sánh, sử dụng động từ mạnh đã làm cho hình ảnh con Sông Đà thật ghê rợn như một nhân vật mang tâm địa độc ác với các kiểu khôn khéo, ranh ma.
  • Sức tưởng tượng của Nguyễn Tuân đã được đẩy lên mức kì khu kì quái do cái động lực bướng bỉnh: “ không chịu lùi bước trước Tạo Hóa.”
  1. Tiếng thác nước
  • Dẫn dắt: Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, con sông Đà thực sự đã trở thành một loài thủy quái khủng lồ. Tiếng gầm gào của nó qua những thác dữ từ xa đã thấy dễ sợ:

“ Tiếng thác nghe như oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.”

  • + Nghệ thuật so sánh nhân hóa tài ba cùng những liên tưởng rất đắt, Nguyễn Tuân đã cho thấy một cảnh tượng thác nước hùng vĩ và nguy hiểm khôn cùng. Lần đầu tiên trong thơ văn có người dùng lửa miêu tả nước, hai nguyên tố có sức hủy diệt rất lớn lại luôn tương khắc với nhau, có nước thì không có lửa, ngược lại, có lửa thì không có nước. Điều đó chỉ có thể có được bởi bàn tay của người nghệ sĩ bậc thầy.
  • + Qua so sánh, tiếng thác đá Sông Đà được hiện lên như những âm thanh man dại, bản năng của một loài sinh vật hung dữ đang cuồng loạn tìm chốn thoát thân, lại kết hợp với âm thanh những thân vầu tre khô rỗng nổ dữ dội trong lửa, cách miêu tả khiến âm thanh của thác đá không chỉ được cảm nhận bằng thính giác mà còn được hình dung qua trí tưởng tượng, được cảm nhận sống động qua cả xúc giác, thị giác.
  1. Ba trùng vi thạch trận:
  • Dẫn dắt: Con thủy quái không chỉ hung hãn. Nó còn hết sức xảo quyệt. Trong cuộc vật lộn với ông lái đò, nó đã trổ ra đủ thứ mưu ma chước quỷ để lừa người ta vào thế trận đã bày sẵn và hướng người ta vào cửa tử. Đó chính là ba trùng vi thạch trận:

“ Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá, đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạng hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này... Nhưng hình như Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đât là nó bày thạch trận trên sông...Thạch trận đã bày sẵn thì thuyền vụt tới.”

+ Khi thác hiện ra, sau câu văn ngắn giống như tiếng reo ngỡ ngàng, thích thú: “ tới cái thác rồi” Bởi đây mới thực sự là thử thách. Nhà văn đã đồng thời tả cả đá và nước thác trong hình ảnh: “ sóng bọt đã trắng xóa một chân trời đá”. Tính từ trắng lặp lại nhiều lần gây ấn tượng về sóng về gió đã trào sôi mãnh liệt , gợi tả hơi nước và bọt nước đã nhu làm mờ đi mặt sóng, trên một diện tích rộng lớn khắp mặt sông.

+ Cùng với đó là cách miêu tả chân trời đá_ cách miêu tả khiến Sông Đà hiện ra hùng vĩ tới choáng ngợp trong ấn tượng đầu tiên khi gặp mặt

+ Đá Sông Đà cùng với nước, với sóng, với gió kết hợp với nhau cùng lúc tấn công con người đã được nhà văn miêu tả qua những hình ảnh: “đá ở đây từ ngàn năm đã mai phục...mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy con thuyền”

  • Nguyễn Tuân là nhà văn có tài tạo dựng không khí, đem đến cho tác phẩm bằng nghệ thuật miêu tả một sự sống sống động như sự việc đang diễn ra thật, lối kể đầy kịch tính, mạch văn dồn dập, từ ngữ biến hóa, hấp dẫn có cảm giác như đang trực tiếp chứng kiến sự việc. Nhà văn đã thể hiện một cách tài hoa tất cả các tâm, trí, lực, tất cả sự điêu luyện, tinh xảo nhà nghề của người lái đò. Theo Nguyễn Tuân, chỉ có thứ huân chương lao động siêu hạng của cuộc sống tặng cho ông đò mới thực sự xứng đáng ( dấu tròn ở ngực)

+ Sử dụng thuật ngữ quân sự trên cơ sở quan sát thực tế, Nguyễn Tuân đã gợi dậy cái bí ẩn hiểm ác của đá Sông Đà trong sự vĩnh hằng của thiên nhiên khi ngàn năm mai phục, khi sự dữ dằn đột ngột hiện ra sau cái dập dềnh của sóng để nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Một loạt thuật ngữ quân sự thể thao võ thuật như “ thạch trận” “ cuộc giáp lá cà” “hàng tiền vệ” “ boong ke” “pháo đài”.... một hệ thống dày đặc những động từ mang sắc thái nhân hóa đặt trong những nhịp câu ngắn, nhanh, dồn dập: mặt sông rung rít, nước thác reo hò hò la bẻ gãy...đội thuyền... ( trích trong bài- thường ra đề họ sẽ trích cho mình, chứ làm sao thuộc hết dẫn chứng được) khiến thác đá sông Đà thực sự thành một chiến trường với những trận hỗn chiến ác liệt giữa con người và thiên nhiên. Trận chiến ấy còn được tô đậm không khí trận mạc bởi âm âm thanh cuồng loạn của mặt nước vang trời thanh la não bạt...

+ Có những thác đá còn được động vật hóa để tăng thêm sự hung hãn hoang dại như hình ảnh: “ dòng nước hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”. Thậm chí sự hiểm ác và sức mạnh ghê gớm phi phàm của thác đá Sông Đà còn được nhà văn đẩy lên mức độ thân linh phi trong hình ảnh ẩn dụ: binh pháp của thần sông thần đá.

+ Mỗi hòn đá của sông Đà đều có hồn với những khuôn mặt, tính cách, diện mạo khác nhau khi thì ngỗ ngược, nhăm nhúm,méo mó bởi sự gồ ghề, lúc to lớn qua dáng vẻ bệ vệ oai phong lẫm liệt, khi thì tảng đá với những cạnh sắc nhọn hất ngược lên đem đến cảm giác về sự xấc xược trong cái hất hàm thách thức, lúc lại là tảng đá lớn nhẫn xanh xuôi chảy từ trên xuống qua hình ảnh nhân hóa về thằng đá tướng “ mặt tịu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”

  • Qua đó, ta thấy con sông Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược biết bày thạch trận, thủy trận hòng tiêu diệt thuyền bè trên dòng nước của nó, một thứ thiên nhiên Tây Bắc với “ diện mạo và tâm địa của một thứ kẻ thù số một. Con sông hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà.” Chẳng thế mà Sông Đà được gắn liền với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh, Thủy Tinh : “ Núi cao sông hãy còn dài- Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”

+ Thác đá Sông Đà còn vô cùng xảo quyệt khi  dụ thuyền đối phương , khi dàn sẵn trận địa và nhát lầ bày thạch trận mai phục và tấn công con người: vòng đầu mở ra năm cửa tử....cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn, vòng thứ hai tăng thêm nhiều cửa tử... cửa sinh lại bố trí lệch qua phía hữu ngạn, vòng thứ ba bên phải bên trái đều là luồng chết... ljai ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác... Sông Đà đã không lặp mình qua nhiều thử thách

  • Như vậy, bằng biện pháp nhân hóa, so sánh, tô đậm, phối hợp với việc sử dụng ngôn ngữ giàu chất tạo hình, gợi hình, những liên tưởng kì thú, táo bạo,khả năng vận dụng tổng hợp kiến thức của nhiều ngành nghê, nhiều lĩnh vực nghệ thuật,, võ thuật, quân sự những câu văn có sức nén, sức dồn, độ căng, độ giãn đã giúp Nguyễn Tuân khắc họa một cách ấn tượng về một con sông hung bạo, người đọc có thể hình dung Sông Đà như có một linh hồn, một thứ thiên nhiên mà có nhiều lúc như Nguyễn Tuân nói: trong nó ra thành “ diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một “ của con người Tây Bắc.
  1. Vẻ đẹp trữ tình:

Dẫn dắt: Con sông Đà hùng vĩ dài trên năm cây số, ở nơi thượng nguồn nó mang một vẻ đẹp hào hùng và thách thức, vậy mà vượt qua đoạn thượng nguồn dòng sông hoàn toàn mang bộ mặt khác: thơ mộng, trữ tình, thanh bình, yên ả. Sông Đà trữ tình hiện lên qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân với những góc độ và sắc thái:

  1. Sông Đà nhìn từ trên cao:
  • Dòng nước Sông Đà cũng mang vẻ đẹp duyên dáng thi vị. Nguyễn Tuân cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của sông Đà ở nhiều góc độ tầm nhìn khác nhau, lúc thì nhìn từ trên cao xuống tức là lúc đi máy bay trên Sông Đà, lúc lạ nhìn gần đi từ rừng ra và đi thuyền trực tiếp trên sông nước. Trước hết là cảm nhận của nhà văn về vẻ đẹp của sông Đà khi nhìn từ trên cao xuống, tác giả so sánh từ trên máy bay Sông Đà như” chiếc dây thừng ngoằn ngoèo” – phép so sánh ấy đã cụ thể hóa hình dáng mềm mại của sông Đà giống như ca dao xưa ví dòng sông uốn lượn cong như hình con long trên núi rừng Tây Bắc. Tác giả tiếp tục sử dụng trùng điệp các đối so sánh liên hoàn để tô đậm them vẻ đẹp muôn hình muôn vẻ muôn sắc của dòng sông, con sông Đà” tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình mà đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng Hai...”
  • Điệp từ “ tuôn dài” được lặp đi lặp lại hai lần nhấn mạnh chiều dài sông Đà chảy suốt chiều dài biên giới phía Tây của Tổ quốc.
  • Phép so sánh Sông Đà như một áng tóc chữ tình lại nhấn mạnh dáng hình dòng sông mềm mại óng ả, mượt mà, duyên dáng, uyển chuyển, yêu kiều, hình ảnh ẩn hiện mây trời Tây Bắc và phép so sánh “mây trời cuồn cuộn như mù khói núi Mèo đốt nương xuân,” chính điều này làm tăng thêm vẻ hư ảo kín đáo e ấp tình tứ của dòng sông.
  • Động từ “bung nở”  là một động từ mạnh, đứng trước hai loài hoa của mùa xuân là hoa gạo đỏ tươi và hoa ban trắng tinh khiết làm xôn xao thêm sự vận động của màu sắc, bừng lên và trang điểm cho dòng sông tuyệt đẹp của thiếu nữ Sông Đà cuốn hút lòng người. Những phép tu từ ấy giúp Nguyễn Tuân vừa tả sông Đà vừa gợi lên vẻ đẹp lộng lẫy giống như một cô gái e ấp tình tứ.

Tham khảo:

“ Sông Đà tột cùng hung bạo và dữ dội, song cũng là con sông đẹp đẽ trữ tình tuyệt đối từ độ cao của máy bay nhìn xuống. Nhà văn đã xuyên qua đám mấy của mùa xuân, qua đám mây của mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà,lại thấy dòng sông ác quỷ thoắt biến nàng tiên kiều diễm đài các và đầy chất thơ. Vẻ đẹp của Sông Đà khiến người ta ngỡ ngàng sửng sốt: “ Sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.” Dòng sông đẹp như áng tóc của người con gái yêu kiều cứ bồng bềnh trải dọc theo những triền núi Tây Bắc đang bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai. Các loài hoa Tây Bắc thi nhau khoe sắc để tô điểm vẻ đẹp cho dòng sông với sắc đỏ rực rỡ của hoa gạo và sắc trắng tinh khiết của hoa ban. Tất cả vẻ đẹp ấy lại thoáng ẩn hiện trong làn khói núi người Mèo đốt nương xuân, tựa như người con gái mang vẻ đẹp vừa tình tứ lại vừa kín đáo e ấp.”

  • Vẻ đẹp của Sông Đà không bao giờ nhàm chán. Ở mỗi thời điểm khác nhau người ta lại thấy Sông Đà trong một dáng vẻ, hình hài khác nhau: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích”, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến như sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn, bực bội mỗi độ thu về..”... Dường như ở con Sông Đà không có cái gì là sơ sài, tất cả đều phải là tuyệt đỉnh.
  • Nguyễn Tuân đã quan sát dòng sông một cách công phu tinh tế trong những thời điểm khác nhau, với những sắc thái khác nhau. Nếu màu xanh ngọc bích gợi sự trong sáng quý phái và êm nhẹ của Sông Đà mùa xuân thì việc so sánh màu xanh ngọc bích của sông Đà với màu xanh canh hến của Sông Gâm, sông Lô thể hiện sự tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân, đó còn là sự thiên vị của một niềm yêu.
  • Dòng sông “ lừ lừ chín đỏ” gợi tả dòng sông chảy nặng phù sa từ thượng nguồn.

 

Tham khảo:

“ Khi ngắm Sông Đà qua làn mây mùa xuân rồi lại xuyên qua đám mây của mùa thu, Nguyễn Tuân còn phát hiện vẻ đẹp gợi cảm của màu nước Sông Đà. Màu nước Sông Đà biến đổi theo mùa: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến như Sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn, bực bội mỗi độ thu về”. Quả là hình ảnh so sánh táo bạo, độc đáo, nước Sông Đà xanh màu ngọc bích sắc xanh trong suốt vừa có màu vừa gợi lên vẻ quý phái. Nó tuyệt đối không phải sắc xanh nhàn nhạt như màu xanh canh hến của sông Gâm sông Lô. Nước Sông Đà mùa thu lại mang sắc màu của thiên nhiên: dòng sông cuồn cuộn đỏ nặng phù sa, giận dữ, bực bội với sắc đỏ bầm lại như một người say rượu. Sông Đà khi ấy thật đa tình gợi cảm.”

  • Dòng sông Đà mang lại  khơi dậy trong lòng người bao nỗi niềm xúc cảm: Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như một cố nhân. Sông Đà gợi niềm vui của con người với cảnh cũ, tình xưa.
  • Hai chữ”cố nhân” vừa là hình ảnh nhân hóa dòng sông như một người bạn cũ, vừa đưa đến cho dòng sông chút vấn vương cổ kính xưa cũ của Đường thi. Sông Đà vì thế hiện lên là một dòng sông gần thương xa nhớ. Nhà văn đã tạo ra một tình huống đặc biệt cho nỗi nhớ, niềm yêu cho những bồn chồn, khát khao vồ vập... Đó là tình huống có thực khi đi rừng lâu ngày, bắt đầu thèm chỗ thoáng, thèm không gian khoáng đãng mênh mông và thèm gặp lại Sông Đà. Cứ men theo sông Đà là có thể ra khỏi rừng.
  • “Xuống một cái dốc núi, trước mắt thấy loang loang như trẻ con nghịch chiếu vào mắt mình rồi bỏ chạy.”

“ Bờ sông Đà, bãi Sông Đà chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà , đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy.”

  • Đến với Sông Đà Nguyễn Tuân còn thấy lòng mình như trẻ lại, thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt rồi bỏ chạy. Sông Đà đã gợi nỗi niềm thơ bé trong lòng tác giả. Cảnh bờ bãi ven sông còn gợi lên trong Nguyễn Tuân niềm vui, niềm hứng khởi rất thi sĩ: “ Chao ôi, trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng.”
  • Cách so sánh rất độc đáo bởi nắng tuy hữu hình nhưng lại không thể năm bắt, chỉ có thể nhìn bằng thị giác. Giòn tan lại là tính từ chủ đặc điểm của những vật thể mỏng manh, dễ vỡ. Nắng giòn tan là một ẩn dụ đẹp đẽ để gợi ra cái nắng thật trong, thật sáng, thật mỏng và thật nhẹ, nó vừa mong manh vừa quý giá, nó vừa hoàn toàn tương phản với cái u ám trĩu nặng của bầu trời những ngày mưa dầm, cách so sánh ấy đã giúp người đọc dễ dàng hình dung ra cảm giác trìu mến nâng niu cùng niềm vui lâng lâng sảng khoái của nhà văn khi gặp lại dòng sông. Niềm vui ấy còn được đặt trong liên tưởng vui khi nối lại chiêm bao đứt quãng- một việc không thể có được ở trong đời người. Và sự nối lại giấc mơ ấy càng hi hữu quý hiếm bao nhiêu thì càng đem lại cảm giác sung sướng bây nhiêu. Có thể thấy, cảm giác khi gặp lại dòng sông lần nào cũng tươi mới, kì diệu như được nối lại một giấc mơ đẹp như được tận hưởng niềm vui chưa từng có trong đời, lần nào gặp cũng là lần đầu tiên, lần cuối cùng, lần duy nhất.

Tham khảo:

“ Trong niềm yêu mến say mê vẻ đẹp Sông Đà, Nguyễn Tuân phát hiện ra chất thơ gợi cảm của Sông Đà ở phía hạ lưu. Nét gợi cảm của Sông Đà không chỉ là một mỹ nhân mà còn là một cố nhân.: “Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như một cố nhân”. Hai chữ “cố nhân” gợi ra tình cảm rất mực đằm thắm của người tình tri kỉ. Sông Đà đem đến niềm vui cho con người với cảnh cũ tình xưa. Để làm rõ điều đó, Nguyễn Tuân  đã tạo ra tình huống: Người ở trong rừng xa con sông lâu ngày gặp lại, dạt dào bao nguồn cảm xúc: “ Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa đâm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng.” Quả thật, Sông Đà đã đem đến cho nhà văn niềm hứng khởi lạ kì, nó được so sánh với “nắng giòn tan” sau kì mưa dầm. Cái nắng rất nhẹ, rất trong, rất sáng đem đến niềm khoái cảm cho con người. Nhà văn so sánh niềm vui được gặp cố nhân như được nối lại chiêm bao đứt quãng. Niềm vui hi hữu trong đời về một giấc mơ đẹp. Nhà thơ tiếp tục tái hiện cảnh sắc Sông Đà thật đẹp và vui mắt : “ Bờ sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm”  trên Sông Đà . Thật thơ mộng. Trước mắt người đọc hiện ra một không gian bao la, cảnh sắc sự vật trong trẻo, hồn nhiên, vui tươi có sức lôi cuốn kì lạ. Bất cứ tâm hồn nào, và như mời gọi mọi người hãy đặt chân lên bờ bãi ven sông. Nhà văn phát hiện chất thơ đặc biệt trong sắc nắng giòn tan của nó. Đó là sắc nắng tháng ba Đường thi: “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Nét tình tứ của thơ Đường đã tạo cho Sông Đà một vẻ đẹp cổ xưa, tựa như người cố nhân chưa quen biết. Đối với Nguyễn Tuân, phải chăng Sông Đà như một cố nhân xa thì nhớ, gặp lại thì vui mừng khôn xiết. Mặc dù, vị cố nhân ấy tính khí thật thất thường,lúc hiền hòa,lúc lại bẩn tính, gắt gỏng ngay đấy!

  1. Sông Đà như một cố nhân trong cảm hưng thi ca:
  • Đặc biệt Sông Đà còn gợi trào dâng cảm hứng thi sĩ, đứng trước Sông Đà không ai không nghĩ đến những câu ca dao thần thoại Sơn Tinh, Thủy Tinh, những câu thơ tình của Tản Đà, những vần thơ Đường của Lí Bạch. Bỗng chốc sông Đà đã biến Nguyễn Tuân thành thi sĩ của tình yêu cảnh vật, cuộc đời, thiên nhiên xã hội con người. Ta bắt gặp hai câu thơ Tản Đà trong bài tùy bút, thật thú vị: “ Dải sông Đà bọt nước lênh đênh/ Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”.
  • Cũng như con sông Trường Giang của Trung Quốc, con sông Đà của ta mang vẻ đẹp Đường thi như một câu thơ tuyệt bút của Lí Bạch hơn 1300 năm về trước: “ Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu
  • Lúc thì Nguyễn tuân nhắc lại câu ca nói chuyện thần Sông, thần Núi tranh giành người đẹp dẫn hồn ta về với huyền thoại: Núi cao sông hãy còn dài/ Năm năm báo oán đời đời đánh ghen.”
  • Qua đó, ta càng cảm thấy, tình sông núi cũng là tình tri âm tri kỉ, sông Đà thực sự trở thành một cố nhân, một tình nhân dẫu trái tính mà vẫn có sức hút, vẫn có sức hấp dẫn mê hoặc lòng người đến kì lạ. Tâm hồn người đọc như được nâng lên một tầm cao nhân văn, trí tuệ được khơi dậy, trở nên bừng sáng và giàu có.
  1. Cảnh vật ven Sông Đà:

Dẫn dắt: Vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà, thể hiện rõ nhất ở vùng hạ lưu của con sông. Để lại những hòn đá xa xôi nơi thượng nguồn, Sông Đà trở nên êm đềm và tĩnh lặng.

  • Vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà còn toát lên từ không gian tĩnh lặng. Phải chăng đây là đoạn Sông Đà ở hạ nguồn hiền lành và yên ả nhất: “ Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi.” Cái tĩnh lặng ở Sông Đà đưa Nguyễn Tuân trở về với quá khứ. Sông Đà trở thành nơi hội tụ của vẻ đẹp lịch sử
  • Tính ước lệ của cụm từ “đời Lí, đời Trần, đời Lê” đưa đến cảm giác cuộc sống như ngưng đọng trong một không gian nguyên sơ, thuần khiết an lành, một không gian nằm ngoài sự chảy trôi của thời gian, sự đổi thay của cuộc sống văn minh
  • Cũng bằng liên tưởng, xúc cảm dồi dào Nguyễn Tuân đã nhận ra vẻ đẹp mộng mơ, huyền ảo, hồn nhiên hoang dã của Sông Đà: “ Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích thuở xưa.”
  • “ Bờ tiền sử, nỗi niềm cổ tích thuở xưa” là cách nói rất độc đáo của riêng Nguyễn Tuân. Nó không chỉ tạo cho câu văn nhạc tính mà còn làm ra giá trị gợi cảm của nó. Dòng sông Đà hiện nên rất thơ mộng, trữ tình hồn nhiên, tươi sáng. Cảnh đẹp ven sông như trong huyền thoại cổ tích
  • Giữa con người và thiên nhiên có một mối chan hòa, giao cảm và đồng điệu tuyệt vời: “ Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt  mà như hỏi tôi bằng cái nói riêng của con vật lành: Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?” Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông, bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sóng đuổi đàn hươu vụt biến.
  • Nhà văn như bước lạc vào cõi trong trẻo, an lành, thuần hậu, và không có thực của thế giới cổ tích, ảo giác mãnh liệt đến mức nhà văn bỗng thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của chuyến tàu xe lửa. Có lẽ ở nơi đây chỉ có thiên nhiên làm chủ vẻ đẹp của chính mình và con người chỉ đóng vai trò là một ông khách qua đường thưởng ngoạn cái đẹp. Giữa con người và thiên nhiên có một mối quan hệ hòa hợp thân thiện. Mọi chuyển động dường như đều cố gắng để không làm ảnh hưởng tới cái dòng  chảy tĩnh lặng như thời tiền sử ấy. Quá khứ và hiện tại đan xen khẳng định vẻ đẹp bất biến theo thời gian.
  • Nguyễn Tuân đã khám phá sự vật _ con sông Đà_ ở phương diện văn nghệ thuật, đã miêu tả, nhận diện con người- ông lái đò- ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Tả cảnh thì biến hóa trong bốn mùa, trong mọi thời gian. Nói về thác ghềnh thì đa thanh, phức điệu, bằng tất cả cảm giác tinh tế, bao liên tưởng đầy thi vị , với bao cảm giác mạnh đầy màu sắc và góc cạnh với một kho từ ngữ giàu có, sáng tạo.
  • Nghệ thuật nhân hóa, so sánh của nhà văn rất táo bạo. Mỗi so sánh trong tác phẩm thực sự là một phát hiện sắc sảo, độc đáo về sông Đà. Ngôn ngữ rất phong phú, tinh tế, chính xác, câu văn giàu tính tạo hình, giàu nhạc điệu. Vì vậy khi miêu tả vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của Sông Đà, Nguyễn Tuân đã vận dụng kết hợp nhiều ngành văn hóa và nghệ thuật để làm nên một áng văn đậm chất hội họa và thơ ca.
  1. Tổng kết nghệ thuật:

Nhà văn đã sáng tạo trong việc sử dụng những từ ngữ những cách dùng từ rất lạ, khả năng phô diễn chất tài hoa uyên bác lịch lãm trong văn phong của Nguyễn Tuân qua, lối diễn đạt phong phú thủ pháp tương phản được sử dụng triệt để, đã dẫn người đọc đi từ bất ngờ này sang bất ngờ khác về vẻ đẹp của Sông Đà. Nếu ở phần đầu của đoạn trích, người đọc hồi hộp căng thẳng như được trực tiếp chứng kiến sự dữ dội ác liệt của Sông Đà thì phần sau của bài tùy bút người đọc có thể nhẹ nhõm thảnh thơi say đắm khi chiêm ngưỡng sông nước Đà giang thơ mộng tuyệt hảo.

Kết bài:

  • Khái quát ý chính của đề
  • Khẳng định tài năng tác giả

Tham khảo:

“ Đã có biết bao nhiêu dòng sông đất Việt chảy vào thơ ca nhạc họa mà ở đó mỗi dòng sông mang một vẻ đẹp riêng không thể trộn lẫn. Song có lẽ Sông Đà đã đem lại một ấn tượng vô cùng sâu đậm, không bao giờ phai mờ trong tâm trí của người đọc khi đến với Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân. Dưới ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ, qua thủ pháp tương phản và hệ thống hình ảnh được tạo ra từ những liên tưởng kì thú, từ những kiến thức am hiểu sâu sắc về nhiểu ngành nhiều môn học mà Nguyễn Tuân đã khắc họa trọn vẹn hai vẻ đẹp đặc trưng của Sông Đà: hung bạo  và trữ tình- tạo nên một chỉnh thể sông Đà hoàn hảo. Sông Đà xứng đáng là đại diện tiêu biểu nhất của chất vàng trong thiên nhiên Tây Bắc. Nguyễn Tuân đã dành trọn vẹn nỗi niềm say mê thích thú và tình cảm tha thiết gắn bó với thiên nhiên.

Bài viết gợi ý: