ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN
1. – Nhân vật Nhĩ trong truyện ở vào một hoàn cảnh đặc biệt: Căn bệnh hiểm nghèo khiến Nhĩ hầu như bị tê liệt toàn thân, không thể tự mình di chuyển dù chỉ là nhích nửa giờ trên giường bệnh. Tất cả mọi sinh hoạt của anh đều phải nhờ vào sự giúp đỡ của người khác, mà chủ yếu là Liên, vợ anh. Trong văn học đã có không ít tác phẩm đặt nhân vật vào hoàn cảnh hiểm nghèo, giáp ranh giữa sự sống và cái chết. Nhưng thường thì các tác giả khai thác tình huống ấy để nói về khác vọng sống và sức sống mạnh mẽ của con người, hay về nhân ái, sự hi sinh cao thượng (chẳng hạn như truyện Tình yêu cuộc sống của Giắc Lân-đơn, Chiếc lá cuối cùng của 0 Hen-ri). Nhưng truyện của Nguyễn Minh Châu không khai thác theo hướng đó mà tạo nên một tình huống nghịch lí để chiêm nghiệm một triết lí về đời người.
- Tình huống của truyện chính là ở cái điểm rất trớ trêu như một nghịch lí: Nhi làm một công việc đã cho anh có điều kiện đi đến hầu khắp mọi nơi trên thế giới “suốt đời Nhi đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất”, và chắc hẳn cuộc đời anh là dành cho những chuyến đi liên tiếp đến mọi chân trời xa lạ. Ấy thế mà ở cuộc đời, căn bệnh quái ác lại buộc chặt anh vào giường bệnh và hành hạ như thế hàng năm trời. Vào cái buổi sáng hôm ấy, khi Nhĩ muốn nhích người đến bên cửa sổ, thì việc ấy với anh khó khăn như phải đi hết cả một vòng trái đất, và phải nhờ vào sự trợ giúp của đám trẻ con hàng xóm. Tình huống nghịch lí khi Nhĩ đã phát hiện thấy vẻ đẹp lạ lùng của cái bãi bồi bên kia sông, ngay phía trước cửa sổ nhà anh, nhưng anh biết rằng sẽ không bao giờ có thể được đặt chân lên mảnh đất ấy, dù nó ở rất gần anh. Nhĩ đã nhờ cậu con trai thực hiện giúp mình cái điều khao khát đó. Nhưng rồi cậu ta lại sa vào một đám chơi cờ nên để lỡ chuyến đò ngang duy nhất trong ngày.
- Tạo ra một chuỗi những tình huống nghịch lí như trên, tác giả muốn lưu ý người đọc đến một nhận thức về cuộc đời: cuộc sống và số phận con người chứa đầy những điều bất thường, những nghịch lí, ngẫu nhiên, vượt ra ngoài những dự định và ước muốn, cả những hiểu biết và toàn tính của người ta. Nhưng ý nghĩa trong tình huống nghịch lí trong truyện Bến quê không dừng ở chỗ đó. Nó còn mở ra một nội dung triết lí nữa, mang tính tổng kết những trải nghiệm của cả đời người, qua những suy ngẫm của nhân vật Nhĩ “con người ta trên đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình” và sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp rất gần gũi như cái bãi bồi bên kia sông khi sắp giã biệt cuộc đời, Nhĩ mới cảm nhận thấm thía được.
2. Dòng cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật Nhĩ.
- Cảm nhận của Nhĩ về vẻ đẹp của thiên nhiên trong một buổi sáng đầu thu, được nhìn từ khung cửa sổ căn phòng của mình.
+ Cảnh vật được miêu tả theo tầm nhìn của Nhĩ, từ gần đến xa, tạo thành một không gian có chiều sâu, rộng: từ những bông bằng lăng ngay phía ngoài cửa sổ đến con sông Hồng với màu đỏ nhạt lúc đã vào thu, vòm trời và sau cùng là bãi bồi bên kia sông.
- Cảnh vật thiên nhiên trong buổi sáng đầu thu qua cái nhìn của Nhĩ hiện ra với vẻ đẹp riêng mà chỉ có thể cảm nhận được bằng những cảm xúc tinh tế. Những chùm hoa bằng lăng cuối mùa thu thưa thớt nhưng lại đậm nét hơn; con sông Hồng màu đỏ nhạt, mặt sống như rộng thêm ra vòm trời như cao hơn, “những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi bên kia sông, và cả một vùng phù sa lâu đời của bãi bôi ở bên kia sông Hồng lúc này đang phô ra trước khuôn cửa sổ của gian gác nhà Nhĩ một thứ màu vàng thau xen với màu xanh non những cảnh sắc ấy vốn quen thuộc, gần gũi, nhưng lại như rất mới mẻ với Nhĩ, tưởng chừng như lần đầu tiên anh cảm nhận được tất cả vẻ đẹp và sự giàu có của nó
- Những suy ngẫm của Nhĩ từ hoàn cảnh của mình mà phải phát hiện quy luật giống như một nghịch lí của cuộc đời người.
+ Hoàn cảnh của Nhĩ bệnh tật hiểm nghèo kéo dài, mọi sự phải trông cậy vào sự chăm sóc của vợ con. Trong cái buổi sáng đó, Nhĩ đã nhận ra như bằng trực giác, thời gian của đời mình chẳng còn bao lâu nữa (chú ý những chi tiết như: câu hỏi của Nhĩ với Liên: “Đêm qua lúc gần sáng em có nghe tiếng gì không?” và “Hôm nay đã là ngày mấy rồi em nhỉ?”, còn Liên thì hầu như cũng đã cảm nhận được tình cảm ấy của Nhĩ, nên chị lảng tránh trả lời những câu hỏi của anh).
+ Cảm nhận của Nhĩ về Liên: Lần đầu tiên Nhi để ý tới Liên đang mặc tấm áo vá, những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai của anh, và Nhã nhận ra tất cả tình yêu thương, sự tần tảo và đức hi sinh thầm lặng của vợ (Nhi nói với Liên: “Suốt đời anh, anh chỉ làm em khổ tâm... mà em vẫn nín thịnh”, còn Liên đã trả lời: “Có hề sao đâu... Miễn là anh sống, luôn luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian nhà này”). Chính trong những ngày cuối đời, Nhĩ mới thực sự thấu hiểu với lòng biết ơn sâu sắc người vợ:”... cũng như cánh bãi bồi đang nằm phơi mình bên kia, tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tấn tảo và chịu đựng hi sinh từ bao đời xưa, và cũng chính nhờ có điều đó mà sau nhiều ngày tháng bôn tẩu, tìm kiếm... Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này”.
- Niềm khao khát của Nhĩ được đặt chân lên bãi bồi bên kia bến sông: Chính vào buổi sáng hôm ấy, khi nhận ra vẻ đẹp của cảnh vật rất đỗi bình dị và gần gũi qua ô cửa sổ căn phòng, đồng thời cũng hiểu rằng mình sắp giã biệt cõi đời, ở Nhĩ bừng dậy một niềm khao khát vô vọng là được đặt chân một lần lên bãi bồi bên kia sông. Điều ước muốn ấy chính là sự thức tỉnh về những giá trị bền vững, bình thường và sâu xa của cuộc sống, những giá trị thường bị người ta bỏ qua, lãng quên, nhất là lúc còn trẻ, khi những ham muốn xa vời đang lôi cuốn con người tìm đến. Sự thức nhận này chỉ đến được với người ta ở cái độ đã từng trải, với Nhĩ thì đó là lúc cuối đời, khi phải nằm liệt trên giường bệnh, bởi thế đó là sự thức tỉnh có xen với niềm ân hận và nỗi xót xa: “Họa chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia”.
- Câu chuyện của Nhĩ với cậu con trai và sự chiêm nghiệm của anh về một quy luật của đời người:
Không thể nào làm được cái điều mình khao khát, Nhĩ đã nhờ đứa con thay mình sang bên kia sông, đặt chân lên cái bãi phù sa màu mỡ. Nhưng ở đây anh lại gặp một nghịch lí nữa: Đứa con không hiểu được ước muốn của cha, nên làm một cách miễn cưỡng và rồi lại bị cuốn hút vào trò chơi hấp dẫn nó gặp trên đường đi, để rồi lỡ chuyến đò sang ngang duy nhất trong ngày. Từ sự việc ấy, Nhĩ đã nghiệm ra được cái quy luật phổ biến của đời người “con người trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình”. Anh không trách đứa con trai bởi vì “vả lại nó đã thấy có gì đáng hấp dẫn ở bên kia sông đâu”.
4. Ở cuối truyện, khi thấy con đò ngang vừa chạm mũi vào bờ đất bên này sông, Nhĩ đã thu hết tàn lực dồn vào một cử chỉ có vẻ kì quặc: “Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài giơ một cánh tay gầy guộc ra phía trước ngoài cửa sổ khoát khoát y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó”. Hành động cuối cùng này của Nhĩ có thể hiểu là anh đang nôn nóng thúc giục cậu con trai hãy mau kẻo lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày. Nhưng hình ảnh này còn gợi ra ý nghĩa khái quát hơn. Đó là ý muốn thức tỉnh mọi người về cái vòng vèo, chùng chình mà chúng ta đang sa vào trên đường đời, để dứt ra khỏi nó, để hướng tới những giá trị đích thực, vốn rất giản dị, gần gũi và bền vững.
- Nhân vật Nhĩ trong truyện là nhân vật tư tưởng, một loại nhân vật nổi tiếng trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu giai đoạn sau 1975. Nhà văn đã gởi gắm qua nhân vật nhiều điều quan sát, suy ngẫm, triết lí về cuộc đời và con người. Nhưng nhân vật không bị biến thành cái loa phát ngôn cho tác giả. Những chiêm nghiệm, triết lí đã được chuyển hóa vào trong đời sống nội tâm của nhân vật, với diễn biến của tâm trạng dưới sự tác động của hoàn cảnh được miêu tả tinh tế hợp lí.
5. Đặc điểm nổi bật trong nghệ thuật của truyện: sáng tạo những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng.
- Hình ảnh bãi bồi, bến sông và toàn bộ khung cảnh thiên nhiên được dựng lên trong truyện thực ra cũng mang một ý nghĩa khái quát, biểu tượng. Đó là vẻ đẹp của đời sống trong những cái gần gũi, bình dị, thân thuộc, như một bến sông quê, một bãi bồi,... rộng ra là quê hương, xứ sở.
- Nhiều hình ảnh và chi tiết khác nằm trong cả hệ thống cũng chứa đựng ý nghĩa biểu tượng khá rõ, như:
+ Những bông hoa bằng lăng cuối mùa màu sắc như in đậm hơn; tiếng những tảng đất lở dở ở bờ sông bên này, khi cơn lũ đầu nguồn đã dồn về, đổ ụp và trong giấc ngủ của Nhi lúc gần sáng. Hai chi tiết này gợi ra cho biết sự sống của nhân vật Nhĩ đã vào những ngày cuối cùng.
+ Đứa con trai của Nhĩ sa vào một đám chơi phá cờ thế trên lề đường. Chi tiết này gợi ra điều mà Nhĩ gọi là sự chùng chình, vòng vèo mà trên đường đời người ta khó tránh khỏi.
+ Hành động và cử chỉ của Nhĩ ở cuối truyện cũng mang ý nghĩa biểu tượng (đã phân tích ở trên).
6. Bằng việc đặt nhân vật vào tình huống có tính nghịch lí, truyện Bến quê phát hiện một điều có tính quy luật: trong cuộc đời, con người thường khó tránh khỏi những điều vòng vèo, chùng chình, đồng thời thức tỉnh về những giá trị và vẻ đẹp đích thực của đời sống ở những cái gần gũi, bình thường mà bền vững.