I. Tác giả:

Nguyễn Minh Châu sinh năm 1930, quê ở làng Văn Thai, tên nôm là làng Thơi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

Theo lời kể của vợ ông, bà Nguyễn Thị Doanh, tên khai sinh của Nguyễn Minh Châu là Nguyễn Thí. Chỉ tới khi đi học, bố mẹ mới đổi tên cho ông thành Minh Châu. Trong những ghi chép cuối cùng, Ngồi buồn viết mà chơi ông viết trong những ngày nằm viện ở Bệnh viện Quân y 108, Nguyễn Minh Châu tự nhận xét về mình: "Từ lúc còn nhỏ tôi đã là một thằng bé rụt rè và vô cùng nhút nhát. Tôi sợ từ con chuột nhắt cho đến ma quỷ. Sau này lớn lên, đến gần sáu chục tuổi, đến một nơi đông người tôi chỉ muốn lẻn vào một xó khuất và chỉ có như thế mới cảm thấy được yên ổn và bình tâm như con dế đã chui tọt vào lỗ".

Năm 1945, ông tốt nghiệp trường Kỹ nghệ Huế với bằng Thành chung. Tháng 1 năm 1950, ông học chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng tại Nghệ Tĩnh và sau đó gia nhập quân đội, học ở trường sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn. Từ năm 1952 đến 1956, ông công tác tại Ban tham mưu các tiểu đoàn 722, 706 thuộc sư đoàn 320. Từ năm 1956 đến 1958, Nguyễn Minh Châu là trợ lý văn hóa trung đoàn 64 thuộc sư đoàn 320. Năm 1961, ông theo học trường Văn hóa Lạng Sơn. Năm 1962, Nguyễn Minh Châu về công tác tại phòng Văn nghệ quân đội, sau chuyển sang tạp chí Văn nghệ quân đội. Ông được kết nạp vào Hội Nhà Văn Việt Nam năm 1972.

Nguyễn Minh Châu qua đời ngày 23 tháng 1 năm 1989 tại Hà Nội

Sự nghiệp văn học

Năm 1960, Nguyễn Minh Châu viết truyện ngắn đầu tay Sau một buổi tập. Trong sự nghiệp sáng tác kéo dài ba thập kỷ (1960-1989), khép lại với chuyện vừa Phiên chợ Giát viết năm 1989, ông để lại 13 tập văn xuôi và một tiểu luận phê bình. Các tác phẩm chính của ông là Cửa sông (tiểu thuyết, 1966), Những vùng trời khác nhau (truyện ngắn, 1970), Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972), Miền cháy (tiểu thuyết, 1977), Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết, 1977) Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (truyện ngắn, 1983), Bến quê(truyện ngắn, 1985), Mảnh đất tình yêu (tiểu thuyết, 1987), Cỏ lau (truyện vừa, 1989)...

Các tác phẩm chính

  • Cửa sông (tiểu thuyết, 1977)
  • Những vùng trời khác nhau (truyện ngắn, 1970)
  • mùa trái cóc ở miền nam
  • Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972)
  • Miền cháy (tiểu thuyết, 1977)
  • Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết, 1977)
  • Những người đi từ trong rừng ra (tiểu thuyết, 1982)
  • Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (truyện ngắn, 1983)
  • Bến quê (truyện ngắn, 1985)
  • Mảnh dất tình yêu (tiểu thuyết, 1987)
  • Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ (1987)
  • Cỏ lau (truyện vừa, 1989).
  • Chiếc thuyền ngoài xa (truyện ngắn,1987)
  • Nguyễn Minh Châu toàn tập (Nhà xuất bản Văn Học, 2001)

II. Tác phẩm:

1. Ra đời:

Chiếc thuyền ngoài xa là tên một truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Minh Chấu. Đây là tác phẩm tiêu biểu cho đề tài đời tư-thế sự của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975. Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 1 tháng 10 năm 2007) cũng chọn và coi đây là tác phẩm hay nhất của nhà văn. Tác phẩm này đã được đưa vào giảng dạy ở chương trình chính thức Sách giáo khoa môn ngữ văn lớp 12 bắt đầu từ năm học 2008 – 2009 qua một đoạn trích phần giữa truyện.

Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa được in lần đầu tiên trong tập " Bến quê ", sau được tác giả lấy làm tên chung cho cả tuyển tập truyện ngắn của mình, in năm 1983.

Tác phẩm còn được đưa vào tập truyện ngắn Tình yêu sau chiến tranh – tuyển tập truyện ngắn Việt Nam đương đại do hai nhà văn Wayne Karlin và Hồ Anh Thái chủ biên, được nhà xuất bản Curbstone ấn hành ở Hoa Kì (bằng tiếng Anh).

Chiếc thuyền ngoài xa thuộc dạng truyện luận đề với việc Nguyễn Minh Châu đã đặt ra vấn đề mối quan hệ giữa văn học và đời sống. Tuy vậy, nhà văn không biến nhân vật thành cái loa phát biểu luận đề.[1] Thông qua câu chuyện kể về chuyến đi của một nghệ sĩ nhiếp ảnh đến một vùng biển miền Trung để chụp ảnh nghệ thuật, với một cốt truyện nhiều tình huống bất ngờ với hệ thống nhân vật đa dạng, nhà văn đề cập đến tính trung thực của người nghệ sĩ, nêu lên mối quan hệ chặt chẽ giữa văn học và hiện thực cũng như những vấn để phức tạp của cuộc sống, kể cả bi kịch số phận con người.

2. Tóm tắt:

Phóng viên Phùng một nghệ sĩ nhiếp ảnh tài hoa, có niềm đam mê với nghề và có một tâm hồn nhạy cảm, được trưởng phòng giao nhiệm vụ đi chụp một tấm ảnh về cảnh biển có sương để bổ sung vào bộ ảnh lịch. Anh đến một vùng biển miền Trung vào giữa tháng bảy. Ngoài Đẩu, người đồng đội cũ giờ làm Chánh tòa án huyện, anh đã quen thân với Phác, một cậu bé thường đi cùng ông ngoại chở gỗ từ trên rừng về bán cho xưởng đóng tàu. Sau khoảng tuần lễ chưa chụp được bức ảnh ưng ý, tình cờ anh thấy cảnh một chiếc thuyền ngoài xa, đang lái vó trong làn sương sớm "mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào, vài bóng người ngồi yên phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum đang hướng mặt vào bờ" tạo nên một khung cảnh "từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích". Phùng nhanh chóng bấm liên thanh một hồi, thu vào chiếc máy ảnh của anh "cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh", một vẻ đẹp thật đơn giản nhưng đạt đến sự hoàn mỹ và toàn bích khiến cho tâm hồn Phùng như được gội rửa và trong ngần trong khoảnh khắc.

Tuy nhiên, khi chiếc thuyền vào bờ, Phùng chứng kiến một cảnh tượng nghiệt ngã, phi thẩm mỹ: hai vợ chồng người dân chài bước vào bờ, người đàn bà mặt rổ dáng người thô kệch, người đàn ông đôi mắt nhìn chằm chằm vào lưng người đàn bà đang đi như mắt con gấu khổng lồ, rồi người chồng rút thắt lưng ra đánh vào lưng người đàn bà tới tấp. Vừa đánh hắn vừa chửi chúng mày chết hết đi, chết hết đi cho ông nhờ, rồi Phác, chính là đứa con của cặp vợ chồng kia, xông vào ngăn cản, đánh lại bố. Cảnh tượng này những ngày sau đó lại tiếp diễn, chỉ khác là lần này khi lão đàn ông vừa rời khỏi thuyền thì có thêm đứa con gái cũng bơi vào bờ, rượt theo em nó và giành được con dao găm thằng bé giấu trong cạp quần. Phóng viên Phùng đánh nhau với lão đàn ông và bị thương nhẹ. Tòa án gọi người đàn bà đến.

Tại đây, chánh án Đẩu vì căm giận người đàn ông vũ phu nhiều lần đánh vợ "ba ngày một trận nhẹ năm ngày một trận nặng", đã khuyên người đàn bà ly hôn, nhưng bà ta còn xin Đẩu đừng bắt tù chồng bà mà hãy bắt bà bỏ tù. Nhưng không ngờ người đàn bà đã van xin Đẩu con lạy tòa tòa đừng bắt con bỏ nó. Sau đó, chị kể lại cuộc đời, gia cảnh của mình, lý do chị không muốn bỏ chồng vì gia đình họ cần một người đàn ông để chèo chống lúc phong ba và nuôi cả một đàn con. Người đàn bà chấp nhận sống nhẫn nhục trong sự ngược đãi của chồng là vì những đứa con. Một người đàn bà có tình thương con vô bờ bến, sự cảm thông cho chồng, thấu hiểu lẽ đời đó chính là quyền uy có sức công phá lớn nhất để cảm thông cả pháp luật mà một người lao động lam lũ có được. Qua đó, chánh án Đẩu vỡ lẽ ra nhiều điều trong cách nhìn nhận cuộc sống còn phóng viên Phùng lại hiểu thêm về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Cuộc đời còn nhiều góc khuất mà nghệ thuật chưa vươn tới, ẩn chứa nhiều ngang trái oái oăm mà khi đến gần mới có thể nhận được, chỉ có lòng tốt và kiến thức sách vở thì không thể giải quyết được vấn đề thực tế, mà phải có một cái nhìn sâu sắc đa diện và nhiều chiều về một vấn đề trong cuộc sống.

Tấm ảnh của Phùng trong năm ấy và nhiều năm về sau vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Nhưng cứ mỗi lần Phùng nhìn bức ảnh, những ám ảnh, trăn trở về hình ảnh người đàn bà vùng biển lại đến với anh

3. Nội dung:

  1. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” mở đầu bằng hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng.

– Câu chuyện bắt đầu từ một tình huống truyện độc đáo, người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng trở về chiến trường xưa để chụp bức tranh cảnh biển theo đề nghị của trưởng phòng. Ở đó, người nghệ sĩ đã phát hiện ra bức tranh “cảnh đắt trời cho” nhưng đằng sau bức tranh ấy là cả một sự thật nghiệt ngã.

a. Phát hiện thứ nhất của người nghệ sĩ là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp:

–  Suốt một tuần liền “phục kích” nay Phùng mới có dịp thu vào ống kính hết một phần tư cuộn phim với cảnh đẹp mà suốt đời cầm máy Phùng chưa bao giờ có được. Đó là hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa được ví với  “một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ”. Cái đẹp trước mắt Phùng là cái đẹp hài hòa đến tuyệt diệu: “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Cảnh và người ở đây thật đúng như yêu cầu trưởng phòng : “phải là tĩnh vật”.

Cảnh đẹp và toàn bích đến độ làm cho Phùng cảm thấy “Đứng trước nó tôi trở nên bối rối” và “Trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Cảm xúc ấy của Phùng chính là sự thăng hoa của tâm hồn, thăng hoa của nghệ thuật.

b. Phát hiện thứ hai đầy nghịch lí của người nghệ sĩ nhiếp ảnh sau bức tranh cảnh biển là:

+ Người nghệ sĩ đã tận mắt chứng kiến, từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu; một lão đàn ông  thô kệch, dữ dằn, độc ác, coi việc đánh vợ như một phương cách để giải toả những bất hạnh, khổ đau… “Chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két…”. Nhưng kỳ lạ thay, dù bị đánh đập tàn nhẫn, người đàn bà vẫn cam chịu “không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”. Đây là hình ảnh đằng sau cái đẹp “toàn bích, toàn thiện” mà anh vừa bắt gặp trên biển. Nó hiện ra bất ngờ, trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống.

+ Mới đầu chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ và người vợ nhẫn nhục chịu đựng, Phùng hết sức “kinh ngạc”, anh “há mồm ra mà nhìn”. Rồi như một phản xạ tự nhiên Phùng “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”. Nhưng đúng lúc đó thì thằng Phác, đứa con người đàn bà đã chạy nhào tới. Phùng lại tiếp tục chứng kiến cảnh tượng đau lòng hơn. Thằng Phác vì thương mẹ mà đã giật cái thắt lưng trên tay của bố nó rồi “vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực” của người cha độc ác. Nhưng hành động của nó đã bị người đàn ông “dang thẳng cánh tay tát cho thằng bé hai cái tát như trời giáng”. Người đàn ông bỏ đi về phía thuyền. Người mẹ ôm lấy đứa con, thằng Phác đưa bàn tay lau nước mắt cho mẹ đọng lại trong những nốt rỗ chằng chịt. Rồi người đàn bà cũng vội vã trở lại thuyền. Bãi cát lại trở về hoang vắng. Chiếc thuyền ngoài xa biến mất như một câu chuyện cổ quái đản.

c. Ý nghĩa của hai phát hiện ấy: Nhà văn đã tạo ra tình huống truyện độc đáo có ý nghĩa khám phá phát hiện đời sống. Qua hai phát hiện của người nghệ sĩ, nhà văn chỉ ra: cuộc đời chứa đựng nhiều nghịch lí, mâu thuẫn; không thể đánh giá con người, cuộc sống ở dáng vẻ bề ngoài mà phải đi sâu tìm hiểu, phát hiện bản chất bên trong. Nhà văn không thể có cái nhìn dễ dãi trước cuộc sống mà phải biết nhìn thấu được bản chất bên trong của cuộc sống. Đó mới là nghệ sĩ chân chính.

2. Câu chuyện của của người đàn bà ở toà án huyện đã mở ra chiều sâu triết lý của tác phẩm. Đó là câu chuyện về cuộc đời nhiều bí ẩn và éo le của một người đàn bà hàng chài nghèo khổ, lam lũ…

a. Lúc mới đến tòa án:

Được tòa mời lên để giải quyết việc gia đình, người đàn bà đã có mặt ở tòa án, nơi chánh án Đẩu (bạn thân của Phùng) làm việc. Khác với vẻ cam chịu ở bãi biển. Lần này chị ta rất “lúng túng, sợ sệt”. Xưng hô “con” gọi Đẩu là “Quý tòa”. Chị van xin “Quý tòa bắt tội con cũng được, bỏ tù con cũng được . Nhưng đừng bắt con bỏ nó”. Chị thà chấp nhận mọi hình phạt của pháp luật, kể cả khung hình phạt cao nhất là đi ở tù nhưng dứt khoát không chịu bỏ chồng. Điều này khiến cho Phùng và Đẩu ngạc nhiên, không hiểu nổi. Sau đó chị đột ngột đổi cách xưng hô, xưng “chị” và gọi Phùng, Đẩu là “các chú”. Cách thay đổi xưng hô này cũng là một ẩn ý của nhà văn.

b. Rồi người đàn bà kể lại câu chuyện cuộc đời mình:

+ “Hồi nhỏ tôi đã là một đứa con gái xấu xí, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa”. Nhà chị cũng rất là khá giả nhưng vì “xấu nên không ai lấy”. Sau đó trót có mang với anh hàng chài vẫn đến nhà chị mua bả về  đan lưới. Chị cũng rất tự hào về lão chồng: “Lão chồng tôi khi ấy là một anh thanh niên, hiền lành nhưng cộc tính. Chẳng bao giờ đánh đập tôi”. Nghĩa là chị không hề oán trách người chồng ấy, trong mắt chị hắn ta là một nạn nhân của đói nghèo và thất học. Rồi như nhìn thấu nguyên nhân của nỗi khổ, chị tự nhận lỗi về mình, khổ là vì mình đẻ nhiều, thuyền chật, con đông, nhiều lần biển động, cả nhà phải ăn cả “xương rồng luộc chấm muối”.

+ Chị kể tiếp câu chuyện cuộc đời mình: mỗi lần “thấy khổ quá là lão lại xách tôi ra đánh”. Tội nghiệp thay cho chị là nếu đàn ông ở thuyền biết  uống rượu thì lão chồng của chị lại không biết uống rượu. Vì vậy, đánh vợ là phương thức duy nhất để giải tỏa những căng thẳng của lão. Sau này con chị lớn, vì không muốn để con thấy cảnh bạo hành. Chị xin lão chồng “có đánh thì đưa tôi lên bờ mà đánh”. Cũng vì thương con mà chị đã gửi thằng Phác lên rừng ở với ông ngoại nó. Vì ai dám chắc rằng, thằng Phác lớn lên sẽ không giống bố nó.

+ Kể đến đây cả Phùng và Đẩu đều thốt lên: “Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được”. Thấy thế, người đàn bà giải thích : “Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông”. Rồi để cho Phùng và Đẩu hiểu hơn chị tiếp tục giải thích : “Đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhỏ nhà nào cũng trên dưới chục đứa”. Chị cũng mạnh dạn nói về thiên chức của người đàn bà tuy có phần lạc hậu nhưng lại thấm đẫm đức hi sinh: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Rồi lần thứ hai chị tha thiết van xin “Các chú đừng bắt tôi bỏ nó”.

+ Như vậy, câu chuyện của người đàn bà làng chài ở tòa án huyện đã mang đến cho người đọc, cho cả Phùng và Đẩu vỡ lẽ ra nhiều điều. Ẩn sau dáng vẻ thất học, lam lũ kia lại là người đàn bà thấu hiểu lẽ đời và giàu lòng vị tha, bao dung, đức hi sinh cao thượng. Chị là hiện thân của người phụ nữ Việt Nam tươi đẹp vô ngần.

c. Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện mang đến bài học sâu sắc:

–           Với chánh án Đẩu: anh có lòng tốt, sẵn sàng bảo vê ̣công lý nhưng anh chưa thưc̣ sư ̣ đi sâu vào đời sống nhân dân. Lòng tốt là đáng quý nhưng chưa đủ. Luâṭ pháp là cần thiết nhưng cần phải đi sâu vào đời sống. Cả lòng tốt và luâṭ pháp đều phải đăṭ vào hoàn cảnh cu ̣thể.

–           Với nghệ sĩ Phùng: Phùng tư ̣ nhâṇ ra mình còn đơn giản khi nhìn nhâṇ cuôc̣ đời và con người. Qua câu chuyện, nhân vật Phùng – người nghệ sĩ – đã có sự nhận thức lại về giá trị của con người và đời sống.

Qua câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà hàng chài và cách ứng xử của các nhân vật, nhà văn muốn gửi đến người đọc thông điệp: đừng nhìn cuộc đời, con người một cách đơn giản, phiến diện; phải đánh giá sự việc, hiện tượng trong các mối quan hệ đa diện, nhiều chiều.

3. Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” kết thúc bằng bức ảnh để lại nhiều ám ảnh:

Bức ảnh của Phùng được chọn trong bộ lịch năm ấy. Trưởng phòng rất hài lòng về Phùng. Bức ảnh ấy cũng được treo rất nhiều trong các gia đình sành nghệ thuật. Nhưng chỉ Phùng mới là người hiểu rõ về bức ảnh. Mỗi lần nhìn kĩ vào bức ảnh đen trắng, nghệ sĩ  Phùng đều thấy “hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai”. Đó là chất thơ, vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, cũng là biểu tượng của nghệ thuật. Và nếu nhìn  lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy “người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh”.  Đó là hiện thân của những lam lũ, khốn khó, là sự thật cuộc đời. Qua đó, nhà văn đã gửi tới người đọc thông điệp : nghệ thuật chân chính không thể tách rời, thoát li cuộc sống. Nghệ thuật chính là cuộc đời và phải vì cuộc đời.

4. Hình tượng người đàn bà hàng chài.

a. Chị là một người đàn bà vô danh:

Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được biết đến tên gọi của người đàn bà tội nghiệp ấy, Nguyễn Minh Châu đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta….

Lần đầu chị xuất hiện với ngoại hình xấu xí, thô kệch, toát ra sự lam lũ, mệt mỏi, cam chịu: “Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch”. Điểm đáng chú ý ấy là khuôn mặt của chị với những nét khó coi: “Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”.  Ở chị còn phơi lộ sự nghèo đói, nhếch nhác :“Tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng”. Mới nhìn thoáng qua, người đọc nhận thấy điều gì đó bất ổn ở chị, dường như đó là vẻ cam chịu ở con người quen với nhọc nhằn lam lũ .

b. Đi sâu vào tìm hiểu cuộc đời của người đàn bà làng chài ta mới thấy hết được số phận éo le, bất hạnh của chị. Chị là nạn nhân của cái đói nghèo và bạo lực gia đình:

Cái xấu đã đeo đuổi chị như một định mệnh, trận đậu mùa quái ác hồi nhỏ đã để lại những nốt rỗ chằng chịt trên khuôn mặt. Vì xấu không ai lấy nên chị trót có mang với anh hàng chài vẫn thường đến nhà chị mua bả về đan lưới. Từ đấy, chị gắn đời mình với sông nước. Cuộc sống nghèo khổ, thuyền chật con đông “nhiều lần biển động phải ăn xương rồng luộc chấm muối”. Vì túng quẫn, đói nghèo, thất học, lạc hậu lão chồng của chị từ một anh con trai “hiền lành nhưng cục tính” đã trở thành một kẻ vũ phu lỗ mãng. Hắn đã lấy phương pháp đánh vợ để giải tỏa những bế tắc cuộc sống. Lão chồng đã hành hạ chị “Ba ngày một trận nhẹ. Năm ngày một trận nặng”.

Trận đòn cay nghiệt ấy không có gì kỳ lạ nhưng kỳ lạ ở thái độ người đàn bà. Kì lạ thay chị vẫn lặng im chịu đựng, vẫn lặng yên như một sự cam chịu: “Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy”. Cảnh tượng ấy khiến cho Phùng tan vỡ. Anh không thể ngờ được đằng sau bức ảnh tuyệt mĩ kia lại vỡ ra những sự thật đời thường trần trụi đến thế.

c. Chị là một người phụ nữ rất thấu hiểu lẽ đời lại giàu lòng nhân hậu, vị tha, chị sẵn sàng chấp nhận tất cả thua thiệt về mình:

Chị chấp nhận phần thua thiệt về mình như một sự sám hối: “Cũng tại đàn bà ở thuyền chúng tôi đẻ nhiều quá…giá chúng tôi đẻ ít đi”. Và vì thuyền chật con đông nên cuộc sống khốn khó, có lúc phải ăn xương rồng luộc chấm muối. Trong suốt câu chuyện dài dằng dặc của đời mình, tuy khó khăn nhưng người đàn bà không tỏ ra oán giận chồng, ngược lại còn bênh vực chồng bởi chị cho rằng lão chồng chị không xấu. Bởi “trước kia là một anh con trai hiền lành nhưng cục tính”. Từ ngày lấy chị vì cuộc sống khốn khó, vất vả cho nên lão chồng đã xem việc đánh vợ là một phương thức giải tỏa những bức bí của cuộc đời: “Cứ mỗi lần thấy khổ quá là lão lại xách tôi ra đánh”. Như vậy, chị là người rất hiểu chồng, thương chồng. À, thì ra  chồng chị là nạn nhân của sự đói nghèo thất học, hắn vừa đáng thương lại vừa đáng giận. Đáng giận vì hắn gây ra biết bao đau thương cho người thân, đáng thương vì hắn là nạn nhân của đói nghèo thất học. Chị hiểu chồng chị như thế, đó là sự thấu hiểu và cảm thông.

Chị cảm ơn lòng tốt của Phùng và Đẩu “chị cảm ơn các chú. Lòng các chú tốt”. Nhưng cũng thẳng thắn, chân thật phê bình Phùng và Đẩu “Nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn…cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Không chỉ vậy, chị còn nhấn mạnh: “Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông”. Với Đẩu và Phùng, lòng tốt của các anh là muốn người đàn bà kia bỏ chồng để tránh bị đòn roi. Nhưng người đàn bà thấu hiểu lẽ đời và sâu sắc ấy đã lý giải cho họ: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa”. Như vậy, chị gồng mình để gánh chịu đòn thù của chồng cũng vì chị cần có một người đàn ông  “dù hắn man rợ” như thế nào. Bởi chị và sắp nhỏ sẽ sống như thế nào khi không có “người đàn ông chèo chống lúc phong ba bão tố”. Giả sử Phùng và Đẩu bắt được người đàn bà bỏ chồng thì hóa ra lòng tốt của các anh lại biến các anh thành tội đồ bởi các anh đã đẩy người đàn bà và những đứa con chị đến chỗ thê thảm của cuộc sống.

d. Vượt lên trên sự cay đắng và cơ cực ấy, tình mẫu tử của chị tỏa sáng, đó chính là đức hi sinh cao thượng của thiên chức làm mẹ: Chị gồng mình gánh chịu đòn roi của chồng là bởi vì những đứa con: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được!”. Chị hiểu rằng bất kỳ một cuộc hôn nhân tan vỡ nào thì người buồn đau nhất chính là những đứa con. Bởi đứa có bố thì mất mẹ, có mẹ thì mất bố, chia đàn xẻ nghé. Một gia đình hạnh phúc là gia đình đầy đủ các thành viên dù đâu đó trong gia đình vẫn  còn nhiều khiếm khuyết. Vì thương con mà chị quặn lòng gửi thằng Phác lên rừng ở với ông ngoại nó. Vì thương con và để tránh sự tổn thương cho những tâm hồn thơ bé nên chị đã bảo lão chồng “có đánh thì đưa chị lên bờ mà đánh”. Chị giống như con gà mẹ xòe đôi cánh che chở cho đàn con trước sự tấn công của loài chim ăn thịt. Chính tình mẫu tử thiêng liêng  cao thượng đã chắp cánh cho chị, đưa đàn con bay vút lên trên sự cơ cực, đói kém, nhọc nhằn và lam lũ. Chị chắt chiu dành dụm từ những niềm vui nhỏ nhất “Vui nhất là thấy đàn con chúng tôi được ăn no” để khỏa lấp những nỗi đau, để xoa dịu nỗi đời cay cực. Tấm lòng của người mẹ ấy thật đáng trân trọng biết bao.

e. Qua hình tượng người đàn bà hàng chài cùng tình huống truyện mang tính nhận thức và khám phá, nhà văn muốn gửi tới người đọc một thông điệp về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời:

Cuộc sống muôn hình muôn vẻ, nhiều nghịch lí, mâu thuẫn. Nếu chỉ nhìn từ một phía thì sẽ đánh giá lệch lạc, phiến diện. Vậy cần phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều để từ đó đưa nghệ thuật vươn tới chiều sâu nhân bản:  “Nghệ thuật phải gắn liền với đạo đức”. Nhà văn không thể có cái nhìn dễ dãi trước cuộc sống mà phải biết nhìn t

hấu được bản chất bên trong của cuộc sống. Đó mới là nghệ sĩ chân chính.

f. Nghệ thuật:

Tình huống truyện mang tính khám phá, nhận thức, phát hiện đời sống. Ngôn ngữ kể chuyện khách quan, giàu sức thuyết phục. Nhân vật được đặt trong những tình huống khác nhau; được khắc hoạ khách quan, chân thực, vừa có cá tính sắc nét vừa có tính điển hình; ngôn ngữ nhân vật sinh động, phù hợp với tính cách.

III.       NGHỆ THUẬT

–           Tình huống truyện độc đáo, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống.

–           Tác giả lựa chọn ngôi kể, điểm nhìn thích hợp, làm cho câu chuyện trở nên gần gũi, chân thực và có sức thuyết phục.

–           Ngôn ngữ nhân vật sinh động, phù hợp với tính cách. Lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa.

–           Trần thuật khách quan.

Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm

Dựng lên sự đối lập giữa hình ảnh chiếc thuyền trên bức ảnh nghệ thuật và tấn bi kịch của gia đình người ngư dân bên trong chiếc thuyền đẹp đẽ ấy, nhà văn thể hiện rõ quan niệm nghệ thuật của mình: nghệ thuật chân chính bao giờ cũng bắt nguồn từ cuộc sống, phục vụ cuộc sống; tài năng và tấm lòng của người nghệ sĩ là những nhân tố không thể thiếu được trong sự sáng tạo nghệ thuật.

Nguyễn Minh Châu đã không trực tiếp phát ngôn cho quan niệm nghệ thuật của mình nhưng hệ thống nhân vật của tác phẩm và đặc biệt quá trình tự ý thức của người nghệ sĩ nhiếp ảnh (ở đoạn kết) đã toát ra điều đó (xem phần trích tác phẩm). Bằng hành động tự ý thức, Phùng đã nhận ra cái chưa đến được của mình để rồi đấu tranh tự hoàn thiện. Đây cũng chính là khát vọng kết nối Chân – Thiện – Mĩ mà suốt đời nhà văn Nguyễn Minh Châu luôn khao khát và tìm kiếm

Giá trị nhân đạo

Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là tác phẩm giàu giá trị nhân đạo. Viết truyện ngắn này, Nguyễn Minh Châu muốn bày tỏ sự thông cảm đối với cuộc sống của con người nơi vùng biển vắng. Tư tưởng nhân đạo của truyện ngắn thể hiện ở thái độ quan tâm đến con người bất hạnh của nhà văn. Phê phán hành động vũ phu của người chồng, đồng thời Nguyễn Minh Châu muốn cho người đọc thấy rõ tình trạng bạo lực trong gia đình, một mảng tối của xã hội đương đại. Nhà văn còn mạnh dạn nêu lên phản ứng dữ dội của đứa con để nhấn mạnh hậu quả trầm trọng của tệ nạn này. Chính người vợ đã gửi đứa con lên ở với ông ngoại để khỏi chứng kiến cái ác hoành hành ngay trong gia đình. Người vợ hy sinh cũng để bảo vệ cho hạnh phúc gia đình. Dẫu viết về bạo lực gia đình, nhưng Nguyễn Minh Châu đã báo động những vấn đề xã hội nhức nhối. Gióng lên một tiếng chuông báo hiệu điều ác, Nguyễn Minh Châu đã đấu tranh cho cái thiện. Tư tưởng nhân đạo của truyện chính là ở điểm ấy.

Ngoài ra, giá trị nhân đạo còn được thể hiện qua việc xây dựng nhân vật người đàn bà. Hình ảnh người đàn bà vùng biển xấu xí, nhẫn nhục vẫn toát lên vẻ đẹp của tình mẫu tử, một vẻ đẹp đầy nữ tính, vị tha của người phụ nữ ở một miền biển còn nghèo đói, lạc hậu. Như vậy ngòi bút nhân đạo của Nguyễn Minh Châu đã thể hiện nhưng khát khao hạnh phúc bình dị của người lao động. Dẫu nghiệt ngã những phận đời, dẫu còn nhiều nghịch lý, nhưng ẩn chìm trong những trang văn của Nguyễn Minh Châu vẫn là chất nhân văn lấp lánh.

IV. Ý NGHĨA VĂN BẢN

Từ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh, truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”  thể hiện những chiêm  nghiệm sâu sắc của nhà văn về nghệ thuật và cuộc đời:

–           Nghệ thuật chân chính phải luôn gắn với cuộc đời, vì cuộc đời;

–           Người nghệ sĩ cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người  một cách toàn diện, sâu sắc;

–           Rung lên hồi chuông báo động về tình trạng bạo lực gia đình và hậu quả khôn lường của nó.

 

  •  

Bài viết gợi ý: