“ Hai đứa trẻ” – Thạch Lam.

* Kiến thức cơ bản

1. Tác giả:

a. Cuộc đời và sự nghiệp.

- Thạch Lam ( 1910 – 1942 ), tên thật là Nguyễn Tường Vinh sau đổi là Nguyễn Tường Lân, xuất thân trong một gia đình viên chức. Thạch Lam bắt đầu viết văn làm báo từ năm 1936. Các tác phẩm chính của ồn: Gió đầu mùa ( tập truyện ngắn; 1937), Nắng trong vườn ( tập truyện ngắn ;1938), Sợi tóc ( tập truyện ngắn; 1942), Hà Nội 36 phố phường ( bút kí; 1943), Theo dòng ( tập tiểu luận, phê bình văn học; 1941)

b. Phong cách.

- Thạch Lam viết văn bằng dư vị của tuổi thơ mình, qua đó ông giành tình cảm thương xót cho những kiếp người nghèo khổ trong xã hội bấy giờ. Những con người sống cuộc sống quẩn quanh bế tắc, những con người bị chôn vùi mơ ước trong cái ao đời bằng lặng của xã hội, họ sống không hi vọng, không tương lai và ngày càng bị cuộc sống bào mòn làm cho tâm hồn dần chai cứng.

- Thạch Lam hay viết về phụ nữ và trẻ em với sự trân trọng và diễn tả thế giới nội tâm phong phú ở họ. Những nhân vật phụ nữ và trẻ em hiện lên qua từng trang văn Thạch Lam đều mang vẻ đẹp thanh cao và giàu lòng thương cảm, thấm đẫm những yêu thương đồng loại.

- Văn Thạch Lam thường đi vào khám phá những trạng thái cảm xúc mơ hồ, tinh vi trong sự biến chuyển của thế gới thiên nhiên xung quanh. Thiên nhiên và con người nội tâm có sự đồng điệu nhất định. Thạch Lam tiêu biểu cho phong cách truyện ngắn trữ tình, một kiểu truyện dường như không có cốt truyện.

- Về diễn đạt, văn Thạch Lam là sự giao hoà giữa thơ và văn xuôi, những câu văn giàu nhạc điệu, hình ảnh, trạng thái cảm xúc như thơ trữ tình nhẹ nhàng mà thấm dần vào thế giới tâm hồn bạn đọc.

2. Tác phẩm.

( Kết hợp luôn với đề: Chứng minh phong cách truyện ngắn Thạch Lam qua tác phẩm “ Hai đứa trẻ”.)

- Truyện ngắn “ Hai đứa trẻ” in trong tập “ Nắng trong vườn” ( 1938 ) là một trong những truyện ngắn đặc sắc nhất của Thạch Lam. Tác phẩm vừa có giá trị hiện thực cao vừa thấm đượm một giá trị nhân đạo sâu sắc. Qua truyện ngắn này, nhà văn thể hiệm niềm thương cản sâu sắc, thông cảm và xót thương vô hạn với những người nghèo khổ, khao khát một sự đổi thay đến với cuộc đời của họ. Đồng thời, tác phẩm cũng thể hiện một tài năng viết truyện ngắn bấc thầy của Thạch Lam.

- Truyện ngắn của Thạch Lam thường không có cốt truyện, mỗi truyện như một bài thơ, Thạch Lam có ba truyện ngắn viết về những kỉ niệm thời thơ ấu ( Hai đứa trẻ, Nhà mẹ Lê, Gió lạnh đầu mùa ). ở truyện ngắn “ Hai đứa trẻ”, toàn bộ câu chuyện chỉ kể về tâm trạng thao thức của hai đứa trẻ Liên và An, mong mỏi chờ đợi một chuyến tàu đêm đi ngang qua. Thế nhưng qua câu chuyện kể tưởng như nhỏ nhặt, đơn giản ấy, Thạch Lam đã thể hiện khá chân thực khung cảnh nghèo nàn, đơn điệu của phố huyện nhỏ, thân phận và những ước mơ, khát vọng của những con người nơi đây.

- Trong tác phẩm này, Thạch Lam chú trọng đi sâu vào nội tâm nhân vật với những cảm xúc, cảm giác mơ hồ, mong manh. Những trang viết vể nội tâm nhân vật, đặc biệt là nhân vật Liên rất sâu sắc và tinh tế.

- Thạch Lam đã sử dụng rất thành công thủ pháp nghệ thuật đối lập, tương phản giữa các vùng âm thanh và ánh sáng. Cả một phố huyện chìm sâu vào bóng tối, chỉ còn một vài chấm sáng tù mù quen thuộc xung quanh ngọn đèn con của một chõng hàng nước, cái bếp lửa của hàng phở khuya vắng khách và ngọn đèn vặn nhỏ thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa của một gian hàng tạp hoá. Những ngọn đèn tù mù như ngái ngủ đó tượng trưng cho cuộc sống tù đọng của những người dân quê nghèo khổ nơi phố huyện nhỏ của một vùng quê lặng lẽ. Trong cái chìm chìm nhạt nhạt và vắng lặng đó, đêm nào cũng có một đoàn tàu đi qua mang theo những luồng ánh sáng mạnh quét vào hai bên và tiếng ồn ào làm xao động cả một vùng quê yên tĩnh. Đoàn tàu như mang đến một thế giới giàu sang và đầy ánh sáng, một thế giới lí tưởng và ước mơ. đối lập với cái hiện thực tĩnh lặng và đầy bóng tối nơi phố vắng một huyện nhỏ. Thủ pháp đối lập cũng là một thủ pháp quen thuộc của các nhà văn lãng mạn chủ nghĩa.

- Thạch Lam có một phong cách, một giọng điệu rất riêng - đó là lối kể chuyện thủ thỉ, tâm tình thấm đượm chất thơ. Người đọc thất ẩn hiện, kín đáo, lặng lẽ sau những hình ảnh, những dòng chữ một tâm hồn Thạch Lam đôn hậu, tinh tế, hết sức nhạy cảm với mọi biến tháu của lòng người và tạo vật

                                                                                           ĐỀ 1

                           PHÂN TÍCH TÁC PHẨM HAI ĐỨA TRẺ CỦA THẠCH LAM

I. Mở bài :
- Thạch Lam (1910 – 1942) tên thật là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi thành Nguyễn Tường Lân. Ông sinh và mất ở Hà Nội, nhưng khi còn ấu thơ có một thời gian ở Cẩm Giàng, Hải Dương. Ông là em ruột hai nhà văn Nhất Linh và Hoàng Đạo, và là một trong những cây bút chủ chốt của “Tự lực Văn Đoàn”.
- Thạch Lam là một cây bút truyện ngắn tài hoa, xuất sắc. Truyện của ông thường không có cốt truyện đặc biệt. Mỗi truyện là một bài thơ trữ tình đượm buồn. 
+ Ông thường đi sâu khai thác đời sống nội tâm nhân vật với những cảm xúc, cảm giác mơ hồ, mong manh, tinh tế. 
+ Hai yếu tố “Hiện thực và lãng mạn, tự sự và trữ tình thi vị” luôn luôn đan cài, xen kẽ vào nhau, tạo nên nét đặc thù, đặc sắc khó lẫn trong trong phong cách nghệ thuật của ông.
- “Hai đứa trẻ” rút từ tập truyện “Nắng trong vườn” – 1938 là tác phẩm xuất sắc tiêu biểu cho đời văn và phong cách Thạch Lam.
II. Thân bài:
1. Một bức tranh quê đầy chất thơ.
- Đặc điểm của truyện: “Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn đơn giản hầu như không có chuyện. 
+ Rất khó tìm được ở đây những sự kiện mang tính chất kịch, bi hài như sáng tác của Nguyễn Công Hoan, những cuộc vật lộn, đau đớn, giằng xé về mặt nội tâm như những trang văn của Nam Cao. 
+ Đọc truyện Thạch Lam, người ta chỉ cảm nhận bằng tâm hồn, bằng tất cả các giác quan, chứ ít khi có thể tóm tắt mạch lạc toàn bộ diễn biến của cốt chuyện. 
+ Truyện chỉ kể lại hình ảnh hai đứa trẻ ngồi trên chiếc chõng nát ngắm nhìn phố xá chìm dần vào đêm tối, tuy “đã buồn ngủ ríu cả mắt” nhưng vẫn cố thức để đợi chuyến tàu đêm đấy ánh sáng vụt qua rồi mới khép cửa hàng đi ngủ. 
+ Câu chuyện đơn sơ như vậy sẽ làm thất vọng cho những ai muốn đi tìm cốt chuyện giàu kịch tính với những chi tiết li kì, lắt léo. Tuy nhiên, dưới ngòi bút Thạch Lam, “Hai đứa trẻ” không hề nhạt nhẽo, trái lại rất ám ảnh, thấm thía, đầy dư vị với cảm xúc buồn thương và giọng thủ thỉ trầm lắng, thiết tha.
- Tác phẩm mở đầu bằng một bức tranh chiều quê phố huyện sinh động như một bài thơ về quê hương quen thuộc mà rất thi vị: 
+ “Chiều, chiều rồi! Một chiều êm ả như ru”. Lời văn rất nhẹ nhàng, nhịp văn êm ái đã đưa con người vào thế giới thanh bình của cảnh vật. 
+ Ngòi bút tinh tế và tạo hình của Thạch Lam chỉ chấm phá vài nét mà đã vẽ được một bức tranh rất sinh động với đủ đường nét, màu sắc, âm thanh, hương vị:
. “phương Tây đỏ rực…và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mắt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. 
. Giữa những hình ảnh sinh động của cảnh vật vang lên âm thanh “tiếng trống thu không” gọi buổi chiều xen lẫn với tiếng “ếch nhái kêu ran ngoài đồng theo làn gió nhẹ đưa vào”, “muỗi bắt đầu vo ve”. 
+ Chỉ bằng mấy câu văn ngắn gọn, Thạch Lam đã đưa độc giả trở về khung cảnh đầy linh hồn êm ả, thị vị mà đượm buồn, thân thiết của quê hương, làng mạc, của nông thôn Việt Nam muôn đời. 
+ Nó khơi gợi trong tâm hồn con người một tình cảm gắn bó thiết tha với miền quê lam lũ. Nơi ấy không chỉ có những cảnh sắc thanh bình, thơ mộng, êm đềm mà còn có cả những mảng đời lam lũ, tăm tối.
2. Tâm trạng của chị em Liên trước bức tranh chân thực về đời sống phố huyện nghèo lúc chiều tối.
- “Hai đứa trẻ” ngoài việc mở ra bức tranh thiên nhiên, còn đi sâu vào tái hiện bức tranh chân thực về đời sống phố huyện nghèo và chỉ qua bức tranh đó, ngòi bút nhân đạo, cái nhìn tinh tế, nhạy cảm của Thạch Lam mới có dịp phát huy đầy đủ nhất.
- Cuộc sống con người phố huyện trong thế giới “chìm chìm, nhạt nhạt” và vắng lặng của buổi chiều tối được dựng lên bằng những nét kí hoạ rất đỗi chân thực và được nhà văn gửi gắm qua cái nhìn ngây thơ của chị em Liên. Trong con mắt của hai đứa trẻ, từ cảnh vật cho đến cảnh sinh hoạt nơi phố huyện, đâu đâu cũng gợi lên sự tàn tạ, quẩn quanh, bế tắc.
a. Mở đầu là khung cảnh ngày tàn.
- Sự tàn tạ được cảm nhận bắt đầu bằng một hình ảnh: một buổi chiều tà, khoảng thời gian vốn dễ khơi dậy nhiều nỗi niềm trong tâm hồn con người. 
+ Buổi chiều quê lặng lẽ khép lại bằng “tiếng trống thu không” báo hiệu ngày tàn. 
+ Những ánh sáng yếu ớt của thiên nhiên rồi cũng tắt dần. 
- Thời điểm hoàng hôn đã trở thành khoảng thời gian đặc biệt gắn bó với văn chương. Khoảnh khắc giao thoa giữa ánh sáng và bóng tối, giữa sự sống náo nhiệt và sự yên lặng lụi tàn luôn gây cho lòng người nỗi buồn thấm thía. 
Xuân Diệu, thi sĩ của những vần thơ xôn xao, rạo rực xuân tình, đắm say cảnh sắc cũng đã hơn một lần cảm thấy 
“Không gì buồn bằng những buổi chiều
Mà ánh sáng hoà cùng bóng tối”…
“Không gian xám tưởng sắp tan thành lệ”.
b. Cảnh chợ cũng tàn.
- Cái buồn của hình ảnh chiều tàn ở đây dường như được cộng hưởng, được nhân lên với hình ảnh của một buổi chợ tàn: 
+ “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi: vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía…”. 
+ Không khí náo nhiệt, nhộn nhịp người mua kẻ bán đã lắng xuống, chỉ còn lại sự trống vắng quạnh hiu. Có gì vui hơn là cảnh chợ đông, có gì buồn hơn là cảnh chợ tàn: Khung cảnh “Chợ tết” trong thơ Đoàn Văn Cừ náo nhiệt là thế mà cũng không cứu vãn được cảnh tàn tạ, hiu hắt, khi “Những người quê lũ lượt trở ra về": 
"Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê
Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ”
- Giữa khung cảnh chợ tàn ấy, tâm hồn nhạy cảm của Liên đã nhận ra thứ mùi vị rất riêng của xứ sở. “Cái mùi cát bụi quen thuộc quá” mà Liên tưởng “là mùi riêng của đất, của quê hương này” chính là mùi vị quen thuộc của nghèo khổ, lầm than, bế tắc. 
Hiện thực cuộc sống trong tác phẩm của Thạch Lam không phải là sự cày xới ngổn ngang những mảnh đời đau thương, bi đát, quằn quại như cuộc đời nhân vật của Nam Cao, Ngô Tất Tố… Hiện thực trong tác phẩm của Thạch Lam được thể hiện qua những chi tiết bình thường, giản dị như trên nhưng lại có sức ám ảnh đặc biệt cho tâm hồn người đọc.
c. Bức tranh về kiếp người tàn.
Đi liền với hình ảnh chiều tàn, chợ tàn là hình ảnh những kiếp người tàn như là linh hồn, là đỉnh cao cảnh quan bức tranh chân thực về đời sống ở phố huyện nghèo. Trong khung cảnh chiều tàn, phố huyện tiêu điều sau phiên chợ vãn người, cuộc sống sinh hoạt vất vả, đơn điệu của những người dân nghèo khổ lam lũ hiện lên đáng thương biết bao.
- Đó là mấy đứa trẻ con nhà nghèo ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi “chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ thứ gì có thể dùng được của người bán hàng để lại”. 
Hình ảnh những đứa trẻ con ngây thơ cúi đầu tìm kiếm những vật dụng nhỏ nhoi vô nghĩa lý đem lại cho người đọc cảm nhận: dường như gánh nặng cuộc đời cũng đang đè nặng lên đôi vai chúng. Cái vô tư, hồn nhiên, tinh nghịch vốn có ở những đứa trẻ đã sớm mất đi bởi đời sống khốn khổ, tàn tạ nơi phố huyện.
- Đó là chị Tý: “Ban ngày chị đi mò cua bắt tép, tối đến chị mới dọn cái hàng nước”. 
Cái cửa hàng của chị cũng nghèo nàn như cuộc đời của chị. Nó chỉ là một cái chõng tre, một ít đồ đạc điếu đóm, tất thảy vừa đủ một chuyến đội đầu, xách tay của chị và thằng cu bé “chả kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng từ chập tối cho đến đêm”.
- Cùng với số phận của chị Tý là số phận của bác phở Siêu với gánh hàng phở leo lét ánh lửa. 
Đó là thứ hàng dù ngon nhưng “là một thứ quà xa xỉ” với người dân phố huyện cho nên “bóng bác mênh mang ngả xuống một vùng và kéo dài đến tận hàng rào”. Sự kéo dài của cái bóng dường như cũng là sự kéo dài của nỗi buồn, sự bế tắc tàn tạ trong cuộc đời bác.
- Gia đình bác xẩm:
“Ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để trước mặt… thằng con bò ra đất, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường”, thỉnh thoảng “mấy tiếng đàn bầu bật trong yên lặng” 
càng gợi lên cảm giác đơn điệu hiu hắt.
- Hai chị em Liên:
+ Với “cái cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu, mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê ở, vì thầy Liên mất việc”. 
+ Hôm nay là phiên chợ “mà bán hàng cũng chẳng ăn thua gì”. 
+ Quảng đời ấu thơ ở chốn đô thị náo nhiệt, đầy ánh sáng chỉ là bóng mờ ký ức trong Liên. 
Cô trở thành người con gái đảm đang và dường như phải sớm lo toan, già đi trước tuổi.
- Hình ảnh bà cụ Thi nghiện rượu, hơi điên với dáng đi “lảo đảo” lẫn vào bóng tối và “tiếng cười khanh khách”. 
Đó có lẽ là tiếng cười duy nhất của các nhân vật trong tuyện. Nhưng tiếng cười ấy không mang lại cho mọi người cảm giác vui lây. Trái lại, nó gây cho Liên sự sợ hãi. Bởi trong tiếng cười ấy dồn nén, chất chứa bao nỗi đắng cay, tủi nhục, bế tắc. 
Vì vậy, bà cụ Thi là hiện thân của kiếp người tàn.
=> Đi vào những số phận nhỏ bé, những cuộc đời thường của người dân trên phố huyện, Thạch Lam đã nhóm lên ở đó chất thơ của đời thường, chất thơ của lòng trắc ẩn, của sự đồng cảm, chia sẻ nhân đạo.
3. Tâm trạng của chị em Liên trước bức tranh đêm tối mênh mông của đất trời phố huyện.
a. Bóng tối làm chủ tất cả:
- Khi ánh chiều đã tắt thì bóng tối ập xuống. Tâm trạng của chị em Liên lại xoay quanh cái quầng sáng thu nhỏ xung quanh ngọn đèn con trên chõng hàng nước ế ẩm của chị Tý.
- Cả phố huyện giờ chỉ thu nhỏ vào cái ngọn đèn con leo lắt ấy, còn xung quanh, bóng tối làm chủ tất cả “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”, bên cạnh có gánh phở bác Siêu, ngọn đèn Hoa Kỳ vặn nhỏ của Liên… 
- Tất cả mấy đốm sáng, hột sáng thưa thớt tù mù. Những hột sáng nhỏ nhoi ấy chẳng thể làm cho đêm sáng ra, mà trái lại càng khiến cho đêm tối thêm mịt mùng dày đặc.
b. Một nhịp sống quẩn quanh, đơn điệu, bế tắc:
- Trong bóng tối ấy là những cuộc đời bóng tối quẩn quanh, bế tắc. 
- Hình ảnh ngọn đèn con của chị Tý chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần là một hình ảnh có sức gợi tả đặc biệt. 
Hình ảnh ấy có ý nghĩa như một biểu tượng về kiếp người nhỏ bé, vô danh, vô nghĩa, sống leo lắt trong đêm tối mênh mông của xã hội cũ không có hạnh phúc, không có tương lai. 
Hình ảnh ấy cũng gợi về nhịp sống lặp đi lặp lại một cách uể oải, đơn điệu, buồn chán, bế tắc ngày này sang ngày khác không có gì thay đổi. 
Đúng như Tố Hữu đã viết:
“Giữa dòng ngày tháng âm u đó
Không đổi nhưng mà trôi cứ trôi”
- Những người dân nghèo khổ trong cảnh ấy vẫn mơ hồ bâng quơ “mong đợi cái gì đó tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. 
“Một cái gì đó” là cái gì vậy? Rất mông lung, mơ hồ, điều đó càng nói lên tình cảnh tội nghiệp của những người sống mà không biết cuộc sống của mình ra sao
=> Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn nhưng có nhiều trang rất hiện thực. Bức tranh đời sống nghèo nói trên là một trong những trang tiêu biểu nhất. Nó đã nói lên được một cách thấm thía và ám ảnh tình trạng cuộc sống âm u, mòn mỏi, bế tắc của người dân nghèo, đồng thời bày tỏ tấm lòng xót thương bao la của tác giả đối với những kiếp người sống “tù mù” ấy (chữ dùng của Nguyễn Tuân)
4. Đó là nguyên nhân nảy sinh tâm trạng của Liên, đặc biệt là tâm trạng chờ đợi tàu:
Chính số phận quẩn quanh, bế tắc của những kiếp người tàn, bức tranh của ngày tàn đã như thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của Liên, gây cho Liên một nỗi buồn man mác.
a. Liên hồi tưởng về kỉ niệm tuổi thơ tươi sáng trước đây ở Hà Nội .
- Liên và An ngửi thấy mùi phở thơm và nhớ lại khi ở Hà Nội “chị được hưởng những thứ quà ngon lạ như thế… được đi chơi Bờ Hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”. 
- Liên bâng khuâng nhớ về “Hà Nội nhiều đèn quá, tạo nên một vùng sáng rực và lấp lánh”. Nhưng giờ đây, ánh sáng ấy chỉ là bóng mờ kí ức trong đêm.
b. Liên chờ đợi tàu - hướng về tương lai , khao khát sự đổi thay.
- Và trong bối cảnh của bức tranh phố huyện tối tăm, tù túng, vốn là người có trái tim rất nhạy cảm nên Liên đã để lại cho tâm hồn mình vượt ra khỏi hiện thực ngột ngạt, vươn tới một giấc mơ, một khát vọng khác với cảnh sống nghèo nàn, tăm tối, bế tắc hiện tại. 
- Liên ngồi chờ đợi đoàn tàu, không phải để đi bán hàng, không phải vì nhu cầu vật chất, bởi không mong gì ai mua nữa mà vì một lí do khác “muốn được nhìn chuyến tàu, đó là hoạt động cuối cùng trong đêm”. 
- Nghĩa là Liên khát khao khắc khoải, háo hức chờ mong một sự đổi thay, khao khát một cái gì khác thường khuấy động cái không khí đơn điệu, buồn tẻ, quẩn quanh, tù túng, lụi tắt dần trong đêm tối. 
- Thực chất đó là nhu cầu khát vọng về tinh thần, nhu cầu được sống dù trong khoảnh khắc bằng một thế giới khác “với tiếng còi rít lên, tàu chạy rầm rộ với những toa tàu sang trọng đèn điện sáng trưng. Trong đó có những con người gợi về Hà Nội huyên náo và vui vẻ”. 
- Con tàu như đem một chút thế giới khác đi qua, một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn chị Tý và ánh lửa bác Siêu leo lắt giữa cái đêm tối mênh mông của đất trời phố huyện. Liên hân hoan, ngây ngất ngắm nhìn chuyến tàu đó.
c. Niềm vui sướng duy nhất chờ đợi trong một ngày đã đi qua nhanh chóng, phố huyện lại chìm đi trong đêm tối. 
- Liên càng cảm thấy buồn hơn khi trở về với hiện tại. 
- Trong giấc mơ chập chờn, cô bé phố huyện như cảm thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết, như chiếc đèn con của chị Tý chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ. 
Thế là khát vọng đã trở thành thất vọng. Liên bâng khuâng, ngậm ngùi, nuối tiếc.
5. Tác phẩm giàu tính nhân đạo:
a. Qua tâm trạng của chị em Liên, Thạch Lam muốn bộc lộ những ý nghĩ kín đáo, nhẹ nhàng nhưng thấm thía biết bao cho tâm hồn người đọc. Đó là tác giả muốn bày tỏ nỗi niềm xót thương đối với những kiếp người nhỏ bé vô danh, không bao giờ biết đến ánh sáng, hạnh phúc. 
- Trong xã hội cũ, có biết bao con người như thế. Họ phải sống cuộc đời tẻ nhạt vô nghĩa, đến trong mơ cũng không biết mơ gì hơn một chuyến tàu đêm vụt qua phố huyện tiêu điều, lụi tắt của cuộc đời mình. 
- Cuộc sống của họ cũng sẽ “mốc lên, rỉ đi, mòn ra, mục ra” trong tăm tối đói ngèo, buồn chán nơi phố huyện và nói rộng ra là trên đất nước lầm than nô lệ.
b. Qua đó Thạch Lam đồng thời cũng muốn đánh thức, lay tỉnh những tâm hồn đang uể oải, lụi tàn.
- Thạch Lam đã khơi dậy ở họ ngọn lửa của lòng khát khao được sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn, khao khát được thoát ra khỏi cuộc sống tăm tối, tù đọng, mòn mỏi đang muốn chôn vùi họ. 
Phải có sự thức tỉnh của “cái tôi” cá nhân mới có được niềm xót thương và sự lay tỉnh đáng quý ấy. 
- Ở truyện này, Thạch Lam đã đặt tất cả trong một cái nhìn già dặn trước tuổi trong đôi mắt trẻ thơ. 
Điều ấy dường như từ tác phẩm đã vút lên tiếng kêu hãy cứu lấy những đứa trẻ; trả lại cho chúng sự hồn nhiên, vô tư vốn có, đừng biến chúng trở thành những kiếp người tàn.
III. Kết bài:
- Nhà văn Nguyễn Tuân đã có một lời nhận xét rất độc đáo “Hai đứa trẻ” có một hương vị thật man mác. Nó gợi một nỗi niềm thuộc về quá vãng, đồng thời cũng dóng lên một cái gì còn ở trong tương lai... 
- Nơi cái thế giới của đôi trẻ ở một phố quê, hình ảnh đoàn tàu và cái tiếng còi tàu đã trở thành thói quen của cảm xúc và ước vọng. 
- “Đọc “Hai đứa trẻ”, thấy bận bịu vô hạn, về một tấm lòng quê hương êm mát và sâu kín”. Nói theo lời Nguyễn Tuân, ta có thể thêm: đọc tác phẩm Thạch Lam, thấy bận bịu vô hạn về một ước mơ, một khát vọng tràn đầy tinh thần nhân văn, nhân bản.

                                                                                               ĐỀ 2

                   Ý nghĩa hình ảnh chuyến tàu đêm qua truyện ngắn Hai đứa trẻ (Thạch Lam)

Con tàu là sản phẩm của nền văn minh phương Tây, xuất hiện ở Việt Nam trong bối cảnh người Pháp tiến hành công cuộc khai thác thuộc địa Đông Dương. Sự xuất hiện của nó không chỉ làm thay đổi đời sống kinh tế – xã hội, mà còn đem đến cho văn chương Việt Nam một nguồn thi liệu mới. Giờ đây, bên cạnh hình ảnh con thuyền – bến sông, trong văn chương nước nhà đã có thêm hình ảnh sân ga – con tàu. Giữa rất nhiều sáng tác trước 1945, chúng ta thấy truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam đã miêu tả thành công hình tượng con tàu – hình tượng mở ra nhiều khía cạnh khác nhau của hiện thực đời sống xã hội đương thời.
Trước hết, hình tượng con tàu được nhà văn miêu tả nhằm thể hiện tình trạng tàn lụi của cuộc sống. Cuộc sống "đang cùn đi, gỉ đi" (Nam Cao) vốn là một chủ đề phổ biến trong văn chương trước cách mạng tháng Tám. Với mỗi nhà văn, chủ đề này sẽ được thể hiện theo từng cách khác nhau. Trong Hai đứa trẻ, hiện thực cuộc sống được nhà văn Thạch Lam quan sát qua tình huống con tàu về ga. Như đã biết, bối cảnh câu chuyện Hai đứa trẻ là khu phố huyện nghèo. Ở đây có đường sắt chạy qua, có sân ga để con tàu theo lịch trình hằng đêm về đón và trả khách. Con tàu vô hình trung đã trở thành một phần cuộc sống của khu phố huyện. Nó là niềm hy vọng của nhiều người trong cuộc mưu sinh. Bởi vậy, đêm đêm, mọi người vẫn thức để đợi con tàu về ga. Với chị em Liên, việc đợi tàu chủ yếu vì một lí do khác. Trong tác phẩm, hình tượng con tàu được miêu tả qua cái nhìn của chị em Liên. Nghệ thuật miêu tả của nhà văn theo lối từ xa đến gần. Khi con tàu sắp về đến sân ga, nó được nhận ra qua "ngọn lửa xanh biếc" và tiếng còi "trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi". Gần hơn, con tàu hiện ra với "một làn khói bừng sáng trắng", với "các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống lòng đường". Mọi hình ảnh, âm thanh, ánh sáng… của đoàn tàu đều được hai chị em Liên quan sát kỹ lưỡng. An nói với Liên: "Tàu hôm nay không đông chị nhỉ". Câu nói này chỉ ra hai hiện thực. Thứ nhất, chị em Liên vẫn hằng đêm thức đợi tàu. Thứ hai, so với trước, chuyến tàu hôm nay vắng khách hơn. Ở một hoàn cảnh khác, chuyện đông khách, vắng khách sẽ là chuyện bình thường. Nhưng trong trường hợp này, nhận xét của An có ý nghĩa khắc sâu chủ đề tư tưởng "cuộc sống đang tàn lụi" của nhà văn. Để thấy rõ điều này, cần phải đặt câu nói của An trong hệ thống những câu văn khác của tác phẩm. Chúng tôi muốn nói tới ba câu văn, đoạn văn sau:
– "Hôm nay, ngày phiên mà bán hàng cũng chẳng ăn thua gì".
– "Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ?".
– "Trước kia, ở sân ga, có mấy hàng cơm mở đón khách, đèn sáng cho đến nửa đêm. Nhưng bây giờ họ đóng cửa cả rồi, cũng im lặng tối đen như ngoài phố".
Câu thứ nhất là cảm nghĩ của Liên, câu thứ hai là lời chị Tý, còn đoạn trích dẫn thứ ba là miêu tả của nhà văn về những hàng quán ở sân ga. Suốt một ngày chợ phiên mà Liên bán hàng "chẳng ăn thua gì". Khách hàng chị Tý không ra mua hàng đều đặn như mọi khi. Cảnh những hàng quán ở sân ga thật tàn tạ. Cái tấp nập "đèn sáng cho đến nửa đêm" giờ chỉ còn là dĩ vãng. Hiện thực trước mắt thật u buồn: những hàng cơm cửa đóng then cài, chìm nghỉm giữa bóng đêm dày nặng. Liên kết những hình ảnh, chi tiết nói trên, chúng ta nhận ra chủ ý nghệ thuật của Thạch Lam. Nhà văn không triết lý kiểu như Nam Cao mà để các hình thức nghệ thuật tự "lên tiếng". Văn Thạch Lam nhẹ nhàng mà sâu sắc là vì vậy.
Hình tượng con tàu ngoài ý nghĩa tả thực còn mang ý nghĩa biểu trưng. Tính chất biểu trưng của nó được xác nhận qua luồng ánh sáng rực rỡ. Trong cảm nhận của những tâm hồn thơ trẻ như Liên và An, ánh sáng con tàu gợi về một thế giới khác "vui vẻ và huyên náo" hơn. Nó đối lập với cái u buồn, thinh lặng của không gian phố huyện. "Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn các vầng sáng ngọn đèn của chị Tý và ánh lửa của bác Siêu". Trên nền cảm nhận về sự đối lập của hai thứ ánh sáng đó, tâm hồn Liên nảy sinh những khát khao về sự đổi thay cuộc sống. Rõ ràng, những đứa trẻ như Liên, An đã mất đi cái hồn nhiên, trong trẻo của tuổi thơ. Thay vào đó là nỗi buồn, là sự tự cố gắng để hy vọng vào một ngày mai. Chuyện hai chị em cố thức để đợi tàu chính là vì cái lẽ ấy. Ta hiểu vì sao khi con tàu vừa rời khỏi sân ga, Liên lập tức "lặng theo mơ tưởng". Tâm hồn Liên đang tìm về với thế giới của ánh sáng rực rỡ và âm thanh huyên náo. Khi viết câu văn "Liên lặng theo mơ tưởng", Thạch Lam hình như cũng đang đau đáu về một sự đổi thay! 
Giữa một buổi chiều là buồn tẻ, "tiếng trống thu không" vang lên "từng tiếng một" để gợi buổi chiều. Rồi màn đêm dần dần đến mà dấu hiệu là "dãi tre làng đen lại" và "bóng tối ngập đầy dần cái buồn của buồi chiều quê thấm thía và tâm hồn ngây thơ" trong đôi mắt của Liên. Phố huyện về đêm gần như vắng tanh, chỉ có vài "ngọn đèn lay đọng trên chõng hàng của chị Tí", gánh phở bác Siêu, vợ chồng bác Xẩm. Tuy "buồn ngủ rức cả mắt", chị em Liên vẫn cố thức, để bán hàng với hy vọng "may ra còn có một vài người mua". Song "Liên và em cố thức là vì cớ khác, vì muốn được nhìn chuyến tàu, đó là hoạt động cuối cùng của đêm khuya".
Thạch Lam khá am hiểu tình cảm của người dân nghèo nơi phố huyện nhỏ này. Đoàn tàu đến là hoạt động náo nhiệt nhất của đêm khuya, đem đến cho mọi người cái hy vọng được nhìn thấy "một chút thế giới khác". Nhà văn đã miêu tả đoàn tàu đêm một cách chi tiết và trân trọng. Đó cũng chính là sự trân trọng ước muốn của con người.
Nhà văn đã miêu tả từ những đấu hiệu đầu tiên: "Mấy người làm công ở hiệu khách đi đón bà chủ ở tỉnh về", "hai ba người cầm đèn lồng lung lay các bóng dài", "đèn ghi đã ra". Con tài từ xa đang tiến đến với "ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi. Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra ngọn gió xa xôi". Dấu hiệu ấy khiến mọi người xôn xao; tiếng bác Siêu báo đền ghi đã ra, tiếng của Liên gọi em An.
Và chuyến tàu đến: "Tiếng còi đã rít lên, và rầm rộ đi tới. Liên đắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vượt qua, các tòa đèn sáng trưng, chiếu ánh sáng cả xuống đường". Trước mắt Liên "những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kềnh lấp lánh, và các cửa kính sáng". Chuyến tàu đi qua, "để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt", "cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo lên trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre".
Thạch Lam đã quan sát và miêu tả bằng những chi tiết khá sâu nét. ánh sáng, màu sắc, âm thanh, hoạt động được thể hiện phù hợp và đầy sức gợi cảm trong đêm tối.
Vì sao chị em Liên và mọi người lại háo hức chờ đón đoàn tàu như vậy? Chuyến tàu về gợi cho "hai đứa trẻ" cảm xúc gì? Phải sành tâm lý trẻ thơ lắm mới có được dòng miêu tả như vậy? Đoàn tàu đi qua gợi lên trong các em nhiều ý nghĩa lắm. Hình ảnh con tàu gợi lại trong chị em Liên trong dòng mơ tưởng về "Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo", nơi các em đã sống một thời êm ấm và sung sướng. Đó là một thế giới khác, một thế giới đã qua, khác hẳn nơi phố huyện buồn tẻ và nghèo nàn. Đó là thể giới của ước mơ và không biết bao giờ còn có dịp trở lại.
Thạch Lam đã dẫn người đọc cùng ông về mộ phố huyện nghèo nàn, buồn tẻ và đơn điệu, cùng ông cảm thông với cuộc sống của một lớp người, sống không có hy vọng vào ngày mai, nếu có chăng là nhìn thấy thoáng qua sự ồn ào, vẻ sang trọng của người khác. Phố huyện bây giờ, khi đoàn tàu đã đi xa, "chỉ còn đêm khuya, tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn", chỉ còn "vợ chồng bác xẳm ngủ gục trên manh chiếu tự bao giờ", và "hình ảnh thế giới quanh mình, mờ mờ đi trong đôi mắt" của Liên. Phải chăng dưới ngòi bút của Thạch Lam, cuộc sống chẳng còn ý nghĩa gì? Không, dù chưa làm được gì cho còn người nghèo khổ, Thạch Lam đã góp một tiếng nói cảm thông, đã nhen nhóm trong họ một chút hy vọng, để vượt lên teên cái tẻ nhạt, tầm thường của cuộc sống. Miêu tả cả một lớp người và tâm trạng của họ như thế, chúng ta thấy được lòng trắc ẩn của nhà văn trước số phẩn của con người. Vì thế, truyện ngắn Hai đứa trẻ là một truyện ngắn hay, gợi lên trong người đọc nhiều nghĩ suy trước số phận con người, nhất là những con người nhỏ bé.

                                                                                           ĐỀ 3

 Phân tích hình ảnh thiên nhiên và con người nơi phố huyện nghèo lúc chiều tối trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam.
Thạch Lam là nhà văn lãng mạn tiêu biểu của Tự Lực Văn Đoàn với lối viết mang phong cách riêng độc đáo. Ông rất nổi tiếng với những truyện ngắn vừa mang đậm chất trữ tình vừa thể hiện một cảm quan hiện thực sâu sắc. Mỗi truyện ngắn của ông là một bài thơ trữ tình đượm buồn. Tuy thời gian cầm bút chỉ 6 năm ngắn ngủi với số lượng tác phẩm không nhiều nhưng cho đến nay có lẽ ông là nhà văn duy nhất của Tự Lực Văn Đoàn vượt qua được thử thách của thời gian bởi những truyện ngắn xuất sắc mà “Hai đứa trẻ” là một trong số đó.Ở đó, nhà văn không tạo ra một cốt truyện đặc biệt đầy những tình huống éo le mà chỉ dựng lên một bức tranh đời sống đầy ấn tượng qua hình ảnh thiên nhiên và con người nơi phố huyện nghèo lúc chiều tối.
Bức tranh đời sống ở phố huyện nghèo lúc chiều tối được bắt đầu bằng âm thanh của một “tiếng trống thu không” vang vọng như đang gọi “Chiều, chiều rồi”. Đó không phải là giọng của Thạch Lam mà là giọng của Liên, một tiếng kêu ngậm ngùi trước cảnh ngày tàn. Lại một buổi chiều nữa Liên phải chứng kiến cảnh vật thiên nhiên trong ánh mặt trời đang lụi tàn “đỏ rực” như lửa đang cháy khiến cho những đám mây ánh hồng lên như “hòn than sắp tàn”. Tiếp đến là những luỹ tre làng đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Đó là một buổi chiều “êm ả như ru” trong những âm thanh “văng vẳng râm ran của tiếng ếch nhái ngoài đồng ruộng” được “ngọn gió nhẹ hoang vu” mang theo vào phố huyện. Hoà vào đó là tiếng muỗi kêu vo ve thật gợi buồn. Cảnh vật thiên nhiên trên phố huyện lúc chiều xuống càng trở nên ám ảnh khi “mùi âm ẩm bốc lên hoà vào hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi”. Với hai chị em Liên, đó là “mùi riêng của đất”, của quê hương bình dị, quen thuộc. Đêm xuống, âm thanh như thưa thớt và mờ nhạt hơn đến mức Liên chỉ còn nghe hoa bàng rụng xuống trên vai mình khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một. Phố huyện nghèo giờ đây chìm ngập trong bóng tối dày đặc, mênh mông “Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng xẫm đen hơn nữa”. Bóng tối càng mênh mông dày đặc hơn khi tác giả điểm vào đó nhứng điểm sáng “le lói, lập loè, yếu ớt” của đàn đom đóm, một “quầng sáng lờ mờ” của ngọn đèn hàng nước chị Tí, những “hột sáng” nhỏ nhoi lọt qua phên nứa nơi gian hàng của chị em Liên.
Cảnh vật thiên nhiên lúc chiều tối trên phố huyện thật gợi buồn vì được cảm nhận và mô tả qua ánh mắt của nhân vật Liên, một cô bé mới lớn lên đã có những ngày tháng sống ở Hà Nội đầy ánh sáng và hạnh phúc. Tất cả như được bắt đầu từ tiếng kêu ngậm ngùi, thoảng thốt của cô bé Liên: “Chiều, chiều rồi”. Dưới ngòi bút tinh tế của nhà văn, cảnh vật thiên nhiên trên phố huyện hiện ra trong sự hoà hợp thật khéo léo của hình ảnh, màu sắc, âm thanh và mùi vị. Đặc biệt là hình ảnh bóng tối và ánh sáng cứ trở đi trở lại như một motip nghệ thuật rất giàu sức gợi cảm. Góp phần làm nên nét riêng cho đặc sắc nghệ thuật mô tả thiên nhiên của Thạch Lam còn là lối hành văn giàu nhạc điệu, rất uyển chuyển, tinh tế cứ nhẹ nhàng cuốn hút người đọc vào thế giới thiên nhiên của phố huyện nghèo lúc chiều tối. Nó không những cho người đọc nhìn thấy mà quan trọng hơn là còn khơi gợi ở họ những tình cảm, xúc cảm đối với cảnh vật bởi dưới ngòi bút của Thạch Lam mọi cảnh vật đều trở nên thật gợi cảm biết bao.
Cảnh vật thiên nhiên lúc chiều tối trên phố huyện thật nhẹ nhàng, êm ả nhưng đượm buồn đã gợi rất chân thực không gian nơi đây. Sâu xa hơn, nó còn gián tiếp giúp người đọc cảm nhận thật thấm thía những diễn biến, trạng thái tâm trạng của các nhân vật. Đọc “Hai đứa trẻ”, ta thấy thật khó nói cho rạch ròi nỗi buồn từ cảnh vật thấm vào lòng người hay nỗi buồn trong tâm hồn ngây thơ của chị em Liên như nhuốm vào cảnh vật. Ở đó có một cái gì đó thật nhẹ nhàng, hoà hợp nhịp nhàng giữa nỗi buồn của cảnh vật và nỗi buồn trong tâm hồn con người, nhờ vậy mà nhà văn đã tạo ra cho tác phẩm một chất thơ, chất trữ tình riêng cho truyện ngắn “Hai đứa trẻ”.
Trên cái nền của bức tranh thiên nhiên ấy lần lượt hiện ra những mảnh đời thật tội nghiệp. Đó là hình ảnh của những kiếp người lam lũ, tàn tạ, sống mòn mỏi, héo hắt trong mong đợi mơ hồ, xa xôi. Tất cả như đồng điệu với sự tàn tạ của cảnh vật thiên nhiên lúc chiều tối. Giữa cảnh ngày tàn, chợ tàn hiện ra mấy đứa trẻ nghèo lom khom đi nhặt nhạnh những thanh nứa, thanh tre giữa những “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Nhìn cảnh ấy, Liên “động lòng thương” nhưng không có tiền để cho chúng nó. Khi trời nhá nhem tối, khung cảnh phố huyện xuất hiên thêm mẹ con chị Tí với gánh hàng nước thật nghèo nàn mà “tuy chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng từ chiều đến đêm”. Tiếp đến là hình ảnh bà cụ Thi điên “lảo đảo đi lẫn vào bóng tối” với “tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía cuối làng”. Đêm xuống, phố huyện có thêm gánh phở của bác Siêu với chấm lửa nhỏ lơ lửng đi trong đêm mất đi rồi lại hiện ra trong những chập chờn, có lẽ đây là hình ảnh có phần sáng sủa nhất của những kiếp người nơi đây nhưng cũng rất ế ẩm. Khép lại những mảnh đời bé mọn, tội nghiệp là gia đình bác xẩm “ngồi trên manh chiếu rách, bác chưa hát vì không có người nghe”. Nổi bật lên thật ấn tượng và ám ảnh nhất giữa những mảnh đời ấy là chị em Liên. Cha của hai em mất việc phải rời Hà Nội về quê kiếm sống nên hai em phải giúp mẹ bán hàng và trông coi gian hàng tạp hoá nhỏ xíu nghèo nàn. Nhớ lại cuộc sống phong lưu giữa “một vùng sáng rực” của Hà Nội khiến hai em càng buồn hơn cho hiện tại. Giờ đây mùi phở bác Siêu trong đêm thật hấp dẫn nhưng quá xa xỉ, nhiều tiền mà hai em không thể nào mơ tưởng.
Để lại trong lòng người đọc một ấn tượng khó quên là tâm hồn rất nhạy cảm, giàu yêu thương, dễ chạnh buồn của cô bé Liên và cảnh ngộ những người nghèo khổ nơi phố huyện. Có thể nói bằng ấy những mảnh đời nơi phố huyện đều sống trong cảnh nhếc nhác, quẩn quanh cùng một tâm trạng buồn bã ít hi vọng vào lối sống bấp bênh có tính cầu may của mình. Đó là một cuộc sống mòn mỏi lay lắt rất tương đồng với sự tàn tạ của cảnh vật thiên nhiên lúc chiều tối của phố huyện. Tất cả những mảnh đời ấy đều được nhà văn mô tả bằng nét bút chân thực nhưng khác với các nhà văn hiện thực Thạch Lam không đi vào mô tả cụ thể chi tiết mà chỉ được vẽ bằng nét chấm phá thoáng nhẹ nhưng rất tinh tế, giàu sức gợi tả và gợi cảm. Tất cả các nhân vật cứ hiện ra từ từ trong lặng lẽ, âm thầm như những cái bóng, ít nói năng, ít hành động nhưng nhờ đó mà nhà văn đã tô đậm, khắc sâu hơn ở người đọc ấn tượng về kiếp sống héo hắt, leo lét, tội nghiệp của cư dân phố huyện. Bên cạnh đó, nhà văn cũng rất thành công trong việc diễn đạt các trạng thái tâm trạng vừa mong manh, mơ hồ buồn vừa khắc khoải da diết của cô bé Liên lúc chiều tối.
Từ bức tranh thiên nhiên và những mảnh đời tội nghiệp của phố huyện lúc chiều tối ta bỗng nhận ra có một nhà văn đang lặng lẽ, âm thầm rảo bước giữa chiều hôm mà tâm hồn nặng tình gắn bó với mọi cảnh vật và con người bình dị, lam lũ nơi đây. Ở đó, người đọc không ai không xúc động khi tấm lòng bùi ngùi thương cảm kín đào, nhẹ nhàng mà chân thành, thấm thía của nhà văn đối với những kiếp người sống quẩn quanh,leo lét trong xã hội cũ trước cách mạng. Ở đó, ta còn thấy thái độ rất mực trân trọng và sự đồng cảm sâu xa của nhà văn đối với những mong ước tuy mơ hồ, mong manh và xa vời trong tâm hồn họ vì đó chỉ là một chuyến tàu đêm từ Hà Nội về vụt đi qua phố huyện. Quả thật, tâm hồn nhà văn đã được thể hiện qua những lời văn nhiều hình nhiều vẻ nhưng bao giờ cũng đằm thắm và nhân hậu, cũng ngẹn ngào một chút lệ thầm kín của tình thương. Bên cạnh đó, nhà văn còn đưa đến cho người đọc những cảnh quê hương thật quen thuộc mà không kém phần thơ mộng, gợi cảm. Từ đó cứ gợi nhắc mọi người về tình cảm đối với nguồn cội quê hương, với những mẩu kí ức đẹp mà buồn. Có lẽ tình yêu quê hương đất nước của mỗi con người Việt Nam có phần được bồi đắp bởi những kí ức hết sức bình dị như vậy đó.
Bức tranh thiên nhiên và đời sống con người ở phố huyện lúc chiều tối không có nhiều sự kiện, nhân vật, ít hành động, ít nói năng. Nhưng với lối viết giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu, ngôn ngữ trong sáng Thạch Lam đã gợi được tinh tế những không khí của câu truyện, những cảnh sinh hoạt, những xúc cảm trong tâm hồn con người khiến cho bức tranh đời sống của phố huyện đầy ắp suy tư rung cảm. Từ bức tranh ấy cũng tủa ra một mảng sáng lung linh ấm áp trong tâm hồn người lao động nghèo và tấm lòng đầy nhân ái của Thạch Lam.



 

Bài viết gợi ý: