HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT (Trích)
Lưu Quang Vũ

I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả
Lưu Quang Vũ (1948- 1988) quê gốc ở Đà Nẵng, sinh tại Phú Thọ trong một gia đình trí thức.
+ Từ 1965 đến 1970: Lưu Quang Vũ vào bộ đội và được biết đến với tư cách một nhà thơ tài năng đầy hứa hẹn.
+ Từ 1970 đến 1978: ônng xuất ngũ, làm nhiều nghề để mưu sinh. 
+ Từ 1978 đến 1988: biên tập viên Tạp chí Sân khấu, bắt đầu sáng tác kịch và trở thành một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm 80 với những vở đặc sắc như: Sống mãi tuổi 17, Hẹn ngày trở lại, Lời thề thứ 9, khoảnh khắc và vô tận, Bệnh sĩ, Tôi và chúng ta, Hai ngàn ngày oan trái, Hồn Trương Ba, da hàng thịt,…
Lưu Quang Vũ là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, vẽ tranh, viết truyện, viết tiểu luận,… nhưng thành công nhất là kịch. Ông là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại
Lưu Quang Vũ được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000.
2. Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt
+ Vở kịch được Lưu Quang Vũ viết vào năm 1981, được công diễn vào năm 1984. 
+ Từ một cốt truyện dân gian, tác giả đã xây dựng thành một vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ có ý nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân văn sâu sắc.
+ Truyện dân gian gây kịch tính sau khi Hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt dẫn tới "vụ tranh chấp" chồng của hai bà vợ phải đưa ra xử, bà Trương Ba thắng kiện được đưa chồng về. Lưu Quang Vũ khai thác tình huống kịch bắt đầu ở chỗ kết thúc của tích truyện dân gian. Khi hồn Trương Ba được sống "hợp pháp" trong xác anh hàng thịt, mọi sự càng trở nên rắc rối, éo le để rồi cuối cùng đau khổ, tuyệt vọng khiến Hồn Trương Ba không chịu nổi phải cầu xin Đế Thích cho mình được chết hẳn. 
3. Đoạn trích là phần lớn cảnh VII. Đây cũng là đoạn kết của vở kịch, đúng vào lúc xung đột trung tâm của vở kịch lên đến đỉnh điểm. Sau mấy tháng sống trong tình trạng "bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo", nhân vật Hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với bạn bè, người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình, muốn thoát ra khỏi nghịch cảnh trớ trêu.
II. TÌM HIỂU VĂN BẢN
* Đọc thể hiện tính cách, tâm trạng của mỗi nhân vật và xung đột kịch.
1. Phần đầu: trước khi Đế Thích xuất hiện
+ Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba "ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy" với một lời độc thoại đầy khẩn thiết:
"- Không. Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng, thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc!Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát".
+ Hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ (Những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải) 
- Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. 
- Hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa. 
+ Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Hồn Trương Ba cũng càng lúc càng rơi vào trạng thái đau khổ, tuyệt vọng.
+ Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí bởi xác nói những điều mà dù muốn hay không muốn Hồn vẫn phải thừa nhận (cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với "tay chân run rẩy", "hơi thở nóng rực", "cổ nghẹn lại" và "suýt nữa thì…". Đó là cảm giác "xao xuyến" trước những món ăn mà trước đây Hồn cho là "phàm". Đó là cái lần ông tát thằng con ông "tóe máu mồm máu mũi",…). 
+ Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến Hồn càng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy mình ti tiện. 
+ Xác anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ông đưa ra để ngụy biện: "Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn,…". 
+ Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn chỉ buông những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu. 
+ Nỗi đau khổ, tuyệt vọng của Hồn Trương Ba càng được đẩy lên khi đối thoại với những người thân. 
- Người vợ mà ông rất mực yêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Với bà "đi đâu cũng được… còn hơn là thế này". Bà đã nói ra cái điều mà chính ông cũng đã cảm nhận được: "ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa". 
- Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình thân (tôi không phải là cháu ông… Ông nội tôi chết rồi). Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con người có "bàn tay giết lợn", bàn chân "to bè như cái xẻng" đã làm "gãy tiệt cái chồi non", "giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm" trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, "Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy". Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: "Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!".
- Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, "khổ hơn xưa nhiều lắm". Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình "như sắp tan hoang ra cả" khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: "Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy… mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nối có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…"
Tất cả những người thân yêu của Hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ trêu. Họ đã nói ra thành lời bởi với họ cái ngày chôn xác Trương Ba xuống đất họ đau, họ khổ nhưng "cũng không khổ bằng bây giờ".
+ Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của mình đã khiến Hồn Trương Ba cảm thấy không thể chịu nổi. Nỗi cay đắng với chính bản thân mình cứ lớn dần… lớn dần, muốn đứt tung, muốn vọt trào. 
+ Nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ, tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua chát nhưng cũng đầy quyết liệt: "Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ… Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? "Chẳng còn cách nào khác"! Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Có thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!". Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát.
2. Phần sau: từ khi Đế Thích xuất hiện
+ Cuộc trò chuyện giữa Hồn Trương Ba với Đế Thích trở thành nơi tác giả gửi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết. Hai lời thoại của Hồn trong cảnh này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng: 
- Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn…
- Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!.
Người đọc, người xem có thể nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời thoại này. Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Thứ hai, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Những lời thoại của Hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất hiện.
+ Quyết định dứt khoát xin tiên Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình được chết hẳn chứ không nhập hồn vào thân thể ai nữa của nhân vật Hồn Trương Ba là kết quả của một quá trình diễn biến hợp lí. Hơn nữa, quyết định này cần phải đưa ra kịp thời vì cu Tị vừa mới chết. Hồn Trương Ba thử hình dung cảnh hồn của mình lại nhập vào xác cu Tị để sống và thấy rõ "bao nhiêu sự rắc rối" vô lí lại tiếp tục xảy ra. Nhận thức tỉnh táo ấy cùng tình thương mẹ con cu Tị càng khiến Hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát. Qua quyết định này, chúng ta càng thấy Trương Ba là con người nhân hậu, sáng suốt, giàu lòng tự trọng. Đặc biệt, đó là con người ý thức được ý nghĩa của cuộc sống.
Cái chết của cu Tị có ý nghĩa đẩy nhanh diễn biến kịch đi đến chỗ "mở nút". Dựng tả quá trình đi đến quyết định dứt khoát của nhân vật Hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã đảm bảo được tính tự nhiên, hợp lí của tác phẩm.
III. TỔNG KẾT
Không chí có ý nghĩa triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người, rong vở kịch nói chung và đoạn kết nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ:
Thứ nhất, con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển. 
Thứ hai, lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn.
Cả hai quan niệm, cách sống trên đều cực đoan, đáng phê phán. 
Ngoài ra, vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức xúc, đó là tình trạng con người phải sống giả, không dám và cũng không được sống là bản thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi.
Với tất cả những ý nghĩa đó, đoạn trích rất tiêu biểu cho phong cách viết kịch của Lưu Quang Vũ

                                                                  Đề 1

                Phân tích bi kịch của Trương Ba trong "Hồn Trương Ba, da hàng thịt".

Lưu Quang Vũ ( 1948-1988 ) là một trong những nhà viết kịch tài năng nhất của văn học Việt Nam . Tiêu biểu cho sự nghiệp sáng tác của ông là vở kịch Hồn Trương Ba , da hàng thịt . Đoạn trích vở kịch Hồn Trương Ba , da hàng thịt ( SGK Ngữ văn 12 ) là văn bản đặc sắc , qua việc khắc hoạ mâu thuẫn giữa hồn Trương Ba với xác hàng thịt , với người thân đã phản ánh bi kịch và khát vọng hoàn thiện nhân cách của nhân vật hồn Trương Ba .

Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt được sáng tác năm 1981, đến năm 1984 mới ra mắt công chúng. Đây là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ, đã công diễn nhiều lần trên sân khấu trong và ngoài nước . Vở kịch được sáng tác trong không khí đổi mới tư duy, ý thức dân chủ trong đời sống, phong trào đấu tranh chống tiêu cực trong xã hội. Vở kịch gồm 7 cảnh, được tác giả sáng tác dựa trên một cốt truyện dân gian.

Đoạn trích Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt nằm ở cảnh 7 của vở kịch , qua việc xây dựng xung đột giữa tâm hồn thanh cao của Trương Ba với thể xác phàm tục của anh hàng thịt đã khắc hoạ bi kịch tha hoá và cuộc đấu tranh gay gắt bảo vệ , hoàn thiện nhân cách của con người . Từ đó tác giả đã phê phán một số hiện tượng tiêu cực trong xã hội và gửi gắm triết lý nhân sinh sâu sắc về yêu cầu thống nhất giữa thể xác và tâm hồn.

Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba “ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy” với một lời độc thoại đầy khẩn thiết:”- Không. Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi! . Hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ thể hiện trong những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải . Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Hồn Trương Ba cũng càng lúc càng rơi vào trạng thái tuyệt vọng.

Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí bởi xác nói những điều mà dù muốn hay không muốn Hồn vẫn phải thừa nhận: Cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với “tay chân run rẩy”, “hơi thở nóng rực”, “cổ nghẹn lại” và “suýt nữa thì…”. Đó là cảm giác “xao xuyến” trước những món ăn mà trước đây Hồn cho là “phàm”. Đó là cái lần ông tát thằng con ông “tóe máu mồm máu mũi”,… Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến Hồn càng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy mình ti tiện. Xác anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ông đưa ra để ngụy biện: “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn,…”. Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn chỉ buông những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu.Nỗi đau khổ, tuyệt vọng của Hồn Trương Ba càng được đẩy lên khi đối thoại với những người thân. Người vợ mà ông rất mực yêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Với bà “đi đâu cũng được… còn hơn là thế này”. Bà đã nói ra cái điều mà chính ông cũng đã cảm nhận được: “ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”. Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình thân : tôi không phải là cháu ông… Ông nội tôi chết rồi. Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, “Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy”.

Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”. Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, “khổ hơn xưa nhiều lắm”. Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra cả” khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy… Mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nối có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…”Tất cả những người thân yêu của Hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ trêu. Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của mình đã khiến Hồn Trương Ba cảm thấy không thể chịu nổi. Nỗi cay đắng với chính bản thân mình cứ lớn dần… lớn dần, muốn đứt tung, muốn vọt trào.Nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ, tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua chát nhưng cũng đầy quyết liệt: “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ… Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánhmất mình? “Chẳng còn cách nào khác”! Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Có thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”. Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát.

Cuộc trò chuyện giữa Hồn Trương Ba với Đế Thích trở thành nơi tác giả gửi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết. Hai lời thoại của Hồn trong cảnh này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn… Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờanh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết! Người đọc, người xem có thể nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời thoại này. Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Thứ hai, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Những lời thoại của Hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất hiện.

Quyết định dứt khoát xin tiên Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình được chết hẳn chứ không nhập hồn vào thân thể ai nữa của nhân vật Hồn Trương Ba là kết quả của một quá trình diễn biến hợp lí. Hơn nữa, quyết định này cần phải đưa ra kịp thời vì cu Tị vừa mới chết. Hồn Trương Ba thử hình dung cảnh hồn của mình lại nhập vào xác cu Tị để sống và thấy rõ “bao nhiêu sự rắc rối” vô lí lại tiếp tục xảy ra. Nhận thức tỉnh táo ấy cùng tình thương mẹ con cu Tị càng khiến Hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát. Qua quyết định này, chúng ta càng thấy Trương Ba là con người nhân hậu, sáng suốt, giàu lòng tự trọng. Đặc biệt, đó là con người ý thức được ý nghĩa của cuộc sống.

Đoạn trích vở kịch Hồn Trương ba, da hàng thịt, qua việc khắc hoạ bi kịch của nhân vật hồn Trương Ba đã thể hiện một ý nghĩa triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người. Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ đồng thời đã khẳng định khao khát hoàn thiện nhân cách, đấu tranh chống lại sự tha hoá trong mỗi con người .Với tất cả những ý nghĩa đó, đoạn trích rất tiêu biểu cho phong cách viết kịch của Lưu Quang Vũ

                                                                  ĐỀ 2

Trình bày suy nghĩ của anh (chị) về câu nói của nhân vật hồn Trương Ba: 'Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn'

Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những tác phẩm thành công nhất của nhà soạn kịch Lưu Quang Vũ. Mượn cốt truyện dân gian, tác giả đã khám phá, thể hiện được nhiều vấn để cấp thiết của con người trong xã hội hiện đại. Để lại ấn tượng sâu sắc nhất với tôi có lẽ là khát vọng về một cuộc sống thực sự được tác giả gửi gắm qua lời nhân vật hồn Trương Ba: "Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn".

Đó là lời giải thích của hồn Trương Ba với Đế Thích khi chối từ cuộc sống vay mượn trong thân xác kẻ khác. Trước đó, vị tiên cờ đã làm phép cho hồn Trương Ba sống lại trong thân xác của anh hàng thịt. Linh hồn thanh sạch của người làm vườn, người chơi cờ đã không thể hoà hợp được với thân xác phàm tục của anh hàng thịt thô lỗ, tham lam. Sự trái ngược giữa hồn và xác không chỉ khiến hồn Trương Ba mà cả những người thân của ông phải thất vọng, đau khổ... Cuối cùng, ông đã lựa chọn cái chết để không đánh mất mình. Câu nói của hồn Trương Ba trước khi chết đã gợi nên nhiều suy ngẫm sâu xa về con nsười và cuộc sống.

Trước hết, phải nói đến sự phú định dứt khoát lối sống "bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo". Bên trong là thế giới của tâm hồn với những suy nghĩ, tình cảm, tư tưởng; cũng là bản ngã riêng của mỗi con người. Bên ngoài là lời lẽ, hành động, cách ứng xử của con người với thế giới xung quanh. Bên trong - bên ngoài còn là hai phương diện linh hồn và thể xác, tinh thần và vật chất trong cuộc sống của con người. Khi bên trong và bên ngoài trái ngược nhau nghĩa là con người phải sống một cách chấp vá, mâu thuẫn với chính mình; phái giả dối, không được là mình. Cuộc sốngđó đẩy con người vào những đau khổ, day dứt, hổ thẹn triền miên. Giống như tâm hồn trong sạch, nhân hậu, bao dung của Trương Ba lại phải trú ngụ trong hình hài thô kệch, vụng về của anh hàng thịt. Linh hồn ấy ghê sợ những ham muốn dung tục và thói thô bạo của thân xác. Trong khi thân xác kia lại khinh bỉ, chế giễu, giày vò linh hồn...

Tình trạng sống chắp vá đó hiện diện trongthực tế đời sống với nhiều dạng thức và bắt nguồn từ những nguyên nhân khác nhau. Có thể do quan niệm hẹp hòi của một thời, một xã hội, do sự ràng buộc của các mối quan hệ; cũng có khi do sự yếu đuối, hèn nhátcủa bản thân mà con người không dám sống thật với bản ngã của mình. Chẳng hạn, trong thâm tâm, ta coi thường, khinh ghét một người nào đó nhưng buộc phải nói cười, vồn vã, tay bất mặt mừng. Có khi bản tính mình sôi nổi, tinh nghịch nhưng buộc phải "đóng vai" hiền hậu, nết na; mình muốn trở thành một nhiếp ảnh gia nhưng lại bị cha mẹ bắt thi vào Đại học Luật... Hoặc khi đứng trước một sự việc, một hiện tượng mình có cách nhìn nhận, đánh giá khác hẳn mọi người nhưng ngại va chạm này nọ nên đành tỏ thái độ đồng tình. Có khi cần phải lên tiếng đấu tranh với cái xấu, cái ác nhưng vì một lẽ gì đó ta lặng im để rồi mãi ân hận, hổ thẹn. Mà nói như Nam Cao, thì trên đời này "Còn gì buồn hơn chính mình lại chán mình?" (Đời thừa)... Cũng có những con người cố tình lựa chọn kiểu sống "hai mặt" này. Họ có thể nói rất hay về tình thương, lẽ phải, về tinh thần vị tha... nhưng bản chất lại tham lam, ích kỉ, tàn nhẫn... Dù thụ động hay chủ động thì kiểu sống "bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo" ấy không thể mang đến cho con người sự bình yên, hạnh phúc. Trái lại, họ sẽ phải sống trong sự hối hận, sự day dứt, giằng xé của lương tâm hoặc trong sự khinh ghét của đồng loại. Nhà thơ Chế Lan Viên từng diễn tả bi kịch đó bằng một hình tượngthơ độc đáo: "Anh là tháp Bay-on bốn mặt - Giấu đi ba, còn lại ấy là anh - Chỉ mặt đó mà nghìn trò cười, khóc - Làm đau ba mặt kia trong cõi ẩn hình" (Tháp Bay-on bốn mặt). Kết quả của lối sống vay mượn, giả dối ấy là con người sẽ đánh mất mình hoặc rơi vào cái chết tinh thần đau đớn. Sự xuất hiện và tồn tại của nhiều cá nhân như thế cũng sẽ tạo nên một xã hội không lành mạnh, làm tha hoá con người.

Bị giằng xé giữa hồn và xác, nhân vật hồn Trương Ba của Lưu Quang Vũ thấm thìa hơn ai hết nỗi thống khổ của cuộc sống chắp vá kia nên đã đánh đổi cả sinh mạng để "được là tôi toàn vẹn". Đó cũng là khát vọng sống chính đáng, đẹp đẽ của con người; là cuộc sống cần có, nên có cho con người. Con người sẽ chỉ có hạnh phúc khi được sống trong sự hài hoà giữa linh hồn và thể xác; sống bằng con người thật của chính mình. Để thực hiện được khát vọng sống ấy, cần có cả những điều kiện khách quan và chủ quan. Đó là môi trường xã hội lành mạnh, công bằng, tôn trọng sự thật, thừa nhận quyền được sống "một cách toàn vẹn" của con người. Sống trong một môi trường như thế, con người sẽ không phải sợ hãi, không phải tìm cách giấu mình. Bản thân mỗi chúng ta cũng cần có "dũng khí" để dám sốngbằng con người thực của mình. Khi nào con người biết nhận thức được về mình một cách trung thực, biết khao khát lối sống chân thật thì sẽ dám nói lên sự thật, dám bộc lộ bản thân mình.

Bản thân tôi, ở một mức độ nào đó, cũng từng nếm trải nỗi khổ khi phải sống "bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo". Tôi có nãng khiếu văn nghệ, thích được khẳng định mình nhưng lại sợ bạn bè cho là "chơi trội" nên cố gắng để chìm vào số đông. Có lúc, ngồi nhìn một chương trình biểu diễn của lớp bị thất bại, trong khi mình có đủ khả năng làm tốt hơn, tôi bứt rứt, tiếc nuối, ân hận... Phải trải qua nhiều lần bị dằn vặt như thế, tôi mới dám đứng lên nói rằng tôi muốn và có thể làm tốt công việc này. Tôi đã "đạo diễn" thành công nhiều tiết mục văn nghệ cho lớp, cho trường và cảm nhận niềm hạnh phúcđược là mình, được phát huy những điều tốt đẹp trong bản thân mình. Bản tính tôi sôi nổi, thích nói cười, thích nghịch ngợm nhưng mẹ muốn tôi phải nhỏ nhẹ, dịu hiền... Tôi không muốn mẹ buồn nhưng cũng không thể "biến hoá" con người mình theo mong ước của mẹ. Mỗi lúc phải "tỏ ra" hiền lành, lặnglẽ, tôi thấy mình lúng túng, mất tự nhiên, mất luôn cả niềm vui. May mắn là cuối cùng mẹ cũng "chấp nhận" cho tôi được là tôi, tất nhiên vẫn kèm theo lời nhắc nhở: không được vui vẻ, hồn nhiên thái quá thành vô tâm, vô duyên! Khi lựa chọn nghề nghiệp, tôi cũng phải cố gắng thuyết phục gia đình để được làm công việc mình yêu thích. Tôi yêu nghề sư phạm và muốn trở thành cô giáo dạy nhạc nhưng bố mẹ tôi ngăn cản vì sợ ra trường khó có thể vào được biên chế hoặc phải đi công tác ở vùng xa. Tôi biết là có không ít khó khăn nhưng sẽ quyết tâm theo đuổi mơ ước của mình bởi "tôi muốn được là tôi toàn vẹn"... Trong các mối quan hệ xã hội, nhiều lúc tôi làm mất lòng không ít bạn bè, người thân vì lời nói thật nhưng cuối cùng hầu hết mọi người đều hiểu và không giận tôi. Và điều quan trọng là khi có thể sống thực với con người bên trong của mình, tôi thấy thật nhẹ nhõm, thanh thản. Nó cho tôi cả sức mạnh để thẳng thắn nhìn nhận và vượt qua những hạn chế của bản thân...

Không chấp nhận lối sống giả dối, vay mượn; khát khao cuộc sống hài hoà, toàn vẹn cho con người - những vấn đề mà Lưu Quang Vũ gửi gắm trong lời nhân vật hồn Trương Ba vẫn còn nguyên vẹn ý nghĩa thời sự. Tôi đã học được ở đó cách nhìn nhận con người và chính bản thân mình; cách lựa chọn một thái độ sống để có thể trở thành người hữu ích và hạnh phúc.

                                                                                            ĐỀ 3

 GIÁ TRỊ NHÂN VĂN CỦA VỞ KỊCH HỒN TRƯƠNG BA,DA HÀNG THỊT CỦA LUU QUANG VŨ
Lưu Quang Vũ là một tài năng ở nhiều mặt viết truyện ,làm thơ ,vẽ tranh nhưng sáng tác kịch là phần đóng góp nổi bật nhất .Ô ng được coi là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại.Lưu Quang Vũ đã để lại hơn 50 tác phẩm  kịch xuất sắc trong đó có vở kịch Hồn Trương Ba,da hàng thịt.
   Kịch Hồn Trương Ba,da hàng thịt sáng tác 1981 nhưng đến 1984 mới ra mắt công chúng và đã được công diễn nhiều lần.Từ cốt truyện dân gian Lưu Quang Vũ đã xây dựng thành một vở kịch nói hiện đại có ý nghĩa tư tưởng và triết lí sâu sắc.Vở kịch gồm bảy cảnh và một đoạn kết.Nội dung kể về Trương Ba là người giỏi đánh cờ và thích làm vườn bị Nam Tào bắt chết nhầm.Vì muốn sửa sai nên Nam Tào và Đế Thích cho hồn Trương Ba nhập vào xác của anh hàng thịt kềnh càng ,thô lỗ vừa mới chết.Tuy được sống nhưng Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái và đau khổ.Vợ Trương Ba định bỏ đi  ‘cấy thuê làm mướn ở đâu cũng được”,trả Trương Ba lại cho vợ anh hành thịt .Cháu nội Trương Ba thì phản ứng gay gắt nhất quyết không nhận ông nội “Ông xấu lắm ,ác lắm! Cút đi ! Lão đồ tể,cút đi”.Người con dâu hiểu được nghịch cảnh của hồn Trương Ba và thương bố chồng nhiều hơn xưa , nhưng chị ta lại lo lắng vì sự thay đổi của ông mà “nhà ta như sắp tan hoang ra cả rồi”   Trước nguy cơ tha hóa về nhân cách và sự xa lánh của người thân,Trương Ba quyết định trả xác lại cho anh hàng thịt và chấp nhận cái chết. Gíá trị nhân văn của của vở kịch chính là những thộng điệp có tính triết lí  về nhân sinh mới mẻ,tích cực. được thể hiện tập trung trong cảnh 7 qua màn đối thoại giữa Trương Ba và xác hàng thịt,đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích.
   Qua màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt tác giả nêu lên quan niệm:con người luôn phải đấu tranh với bản thân để hoàn thiện nhân cách.Màn đối thoại cho thấy con người có hai phần :linh hồn và thể xác ,linh hồn lcó  cơ sở vật chất là thể xác.Trong con người ,biểu hiện của linh hồn là những suy nghĩ ,tư tưởng.Biểu hiện của thể xác là các nhu cầu như ăn ,uống và các hoạt động trong đời sống. Linh hồn và thể xác là một thể thống nhất ,có quan hệ hữu cơ với nhau,trong đó linh hồn giữ vị trí chủ đạo.Vậy nên linh hồn phải chịu trách nhiệm cuối cùng về hành động của thể xác,không thể thỏa mãn mọi nhu cầu ở mọi mức độ ,mọi lúc ,mọi nơi rồi đổ trách nhiệm cho thể xác. Cuộc đấu tranh giữa linh hồn và thể xác thực sự là cuộc đấu tranh trong bản thân con người để làm chủ những nhu cầu, ham muốn,nhất là khi con người bị hoàn cảnh tác động.Đó là cuộc đấu tranh để làm chủ bản thân và hoàn thiện nhân cách của con người.
    Trong màn đối thoại giữa hồn Trương Ba với Đế Thích tác giả đã gửi gắm quan niệm có ý nghĩa nhân sinh về hạnh phúc ,về lẽ sống và về cái chết.Không được sống là chính mình ,phải trú nhờ thân xác hàng thịt,Trương Ba ý thức rất rõ về cảnh ngộ trớ trêu của mình và vô cùng đau khổ. Khi gặp Đế Thích,Trương Ba đã khẳng định “Không thể bên trong một đằng,bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”.Trương Ba kiên quyết trả xác cho anh hàng thịt ,và cũng kiên quyết từ chối không sống trong thân xác cu Tị vì sống như thế “còn khổ hơn là cái chết”.Không những vậy,trước khi trở về với cái chết, Trương Ba còn yêu cầu Đế Thích làm cho anh hàng thịt sống lại vì chị vợ anh ta “thật đáng thương”.Trương Ba cũng yêu cầu Đế Thích “ vì con trẻ”,hãy hiểu nỗi đau khổ của người mẹ mất con mà làm cho cu Tị sống lại .Sự lựa chọn và ý muốn của Trương Ba là rất cao thượng.Qua đó tác giả muốn gửi tới độc giả bức thông điệp :một trong những  điều qúy giá nhất của con người là được sống trọn vẹn với những giá trị mình có và theo đuổi. Nếu không được sống là chính mình mà phải sống gửi ,sống nhờ,sống giả tạo thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa,đầy tính bi hài.
   Đoạn kết của vở kịch là khung cảnh hồn Trương Ba chập chờn trong màu xanh của cây,lá trong vườn,ở trên bậc cửa ,trong ánh lửa ,nơi cầu ao, trong cái cơi đựng trầu ,con dao giẫy cỏ…Cho dù không còn trên cõi đời nhưng Trương Ba vẫn  được người thân quý mến như xưa.Trong tâm trí mọi người Trương Ba vẫn bất tử, vẫn là con người “trong sạch thẳng thắn”.Từ đó Lưu Quang Vũ khẳng định :thân xác của tứng con người tồn tại hữu hạn ,nhưng sự sống  và linh hồn con người là mãi mãi.Tư tưởng và triết lí về con người của Lưu Quang Vũ  vừa biện chứng vừa lạc quan và cao thượng.
   Vấn đề mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác trong vở kịch Hồn Trương Ba,da hàng thịt còn có thể giúp ta liên tưởng đến mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong mỗi sự vật..Khi nội dung và hình thức phù hợp thì sự vật tồn tạị và phát triển .Ngược lại khi nội dung và hình thức không phù hợp với nhau thì sự phát triển bị kìm hãm ,sự tồn tại của sự vật có thể bị đe dọa. Đây cũng là một triết lí mang tính nhân văn giúp cuộc sống con người ngày càng hoàn thiện và tốt đẹp hơn.
    Qua vở kịch Hồn Trương  Ba ,da hàng thịt,nhà viết kịch tài năng Lưu Quang Vũ đã gửi tới nhiều thế hệ khán giả,độc giả những triết lí nhân sinh sâu sắc về hạnh phúc,về sự sống và cái chết ,về mối quan hệ giữa nội dung và hình thức… Lưu Quang Vũ đã về với cõi vĩnh hằng nhưng  cùng với những vở kịch bất hủ có giá trị nhân văn sâu sắc, tên tuổi của ông  sẽ mãi bất tử

 

Bài viết gợi ý: