A. KIẾN THỨC CƠ BẢN

I. TÁC GIẢ

1. Tiểu scuộc đời

- Lưu Quang Vũ (1948- 1988) quê gốc ở Đà Nẵng, sinh tại Phú Thọ trong một gia đình trí thức, cha là nhà viết kịch Lưu Quang Thuận. Đến năm 1954, ông về sống và học tập ở Hà Nội.

- Từ 1965 đến 1970: Lưu Quang Vũ vào bộ đội, phục vụ trong quân chủng Phòng không - Không quân và được biết đến với tư cách một nhà thơ tài năng đầy hứa hẹn.

- Từ 1970 đến 1978: ông xuất ngũ, làm nhiều nghề để mưu sinh. Từ 1978 đến 1988: biên tập viên Tạp chí Sân khấu, bắt đầu sáng tác kịch và trở thành một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm 80 với những vở đặc sắc gây xôn xao dư luận như: Lời nói dối cuối cùng, Lời thề thứ 9, Bệnh sĩ,...

- Lưu Quang Vũ được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000.

1. Sự nghiệp văn học

- Lưu Quang Vũ là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, vẽ tranh, viết truyện, viết tiểu luận,... nhưng thành công nhất là kịch. Ông là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại.

- Tác phẩm kịch tiêu biểu: Lời nói dối cuối cùng; Nàng Xi- ta; Tôi và chúng ta; Khoảnh khắc và vô tận; Lời thề thứ 9; Hồn Trương Ba, da hàng thịt... Và các tập thơ: Hương cây - Bếp lửa (in chung), Mây trắng của đời tôi, Bầy ong trong đêm sâu.

2. Phong cách nghệ thut

- Tác phẩm của Lưu Quang Vũ giàu chất hiện thực và nhân văn.

- Thơ văn Lưu Quang Vũ không bay bổng, hào hoa nhưng nhiều cảm xúc với nhiều trăn trở, khát khao, muốn đổi mới và vươn lên đỉnh cao trong sáng tạo nghệ thuật.

II. TÁC PHẨM HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT

1. Hoàn cảnh ra đời

Hồn Trương Ba, da hàng thịt được viết vào năm 1981, được công diễn lần đầu vào năm 1984, sau đó được công diễn nhiều lần trên sân khấu trong nước và ngoài nước. Từ một cốt truyện dân gian, tác giả đã xây dựng thành một vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ có ý nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân văn sâu sắc.

2. Tóm tắt

Trương Ba là người làm vườn, tính tình hòa nhã, yêu thương vợ con, chan hòa với bà con làng xóm, được mọi người kính trọng. Vì giỏi đánh cờ nên quen thân được với Đế Thích. Do Nam Tào, Bắc Đẩu bắt chết nhầm Trương Ba, nên Đế Thích tìm cách cho hồn Trương Ba sống lại bằng cách để hồn Trương Ba nhập vào các anh hàng thịt. Sau khi hồn Trương Ba nhập vào các anh hàng thịt thì xảy ra vụ tranh chấp" chồng của hai bà vợ, phải đưa ra xử. Bà Trương Ba thắng kiện được đưa chồng về. Khi hồn Trương Ba được sống "hợp pháp" trong xác anh hàng thịt, mọi sự càng trở nên rắc rối, éo le. Tất cả người thân xung quanh Trương Ba đều xa lánh, chính bản thân ông cũng không thể chấp nhận “bên ngoài một đằng bên trong một nẻo”. Đế Thích lại tính kế cho hồn Trương Ba nhập vào xác của cu Tị vừa mới chết, đứa bé hàng xóm cũng là bạn của cháu của Trương Ba. Trương Ba nghĩ ra biết bao phiền toái sau khi nhập hồn vào xác cu Tị. Để rồi đau khổ, tuyệt vọng khiến hồn Trương Ba không chịu nổi phải cầu xin Đế Thích cho cu Tị được sống lại, còn mình thì được chết hẳn. - Đoạn trích trong sách giáo khoa trích từ cảnh VII và đoạn kết của vở kịch, diễn tả sự đau khổ, dằn vặt và quyết định cuối cùng cao thượng của hồn Trương Ba.

3. Những giá trị nội dung, nghệ thuật

a. Nội dung

Trong thể xác thô phàm của anh hàng thịt, Trương Ba dần dần đổi tính: Uống rượu nhiều, ham bán thịt, không còn mặn mà với trò chơi thanh cao, trí tuệ nữa. Nhiều phiền toái rắc rối khiến Trương Ba đau khổ, càng đau khổ hơn khi ông ý thức được điều đó mà không thể giải quyết được. Ông càng cố gắng bao nhiêu thì càng tai hại bấy nhiêu. Nghịch cảnh đó càng được đẩy đến cao trào qua các lớp đối thoại giữa hồn Trương Ba với xác hàng thịt, với những người thân và Đế Thích:

* Đối thoại giữa hồn Trương Ba với các hàng thịt

- Hồn Trương Ba ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy với một lời độc thoại đầy khẩn thiết: Không. Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng, thô lỗ này, ta bắt đầu smi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát”. Những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với những ước nguyện khắc khoải thể hiện hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ. Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm, hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa.

- Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí bởi xác nói những điều mà dù muốn hay không muốn hồn vẫn phải thừa nhận, ví như cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với “tay chân run rẩy”, “hơi thở nóng rực”, “cổ nghẹn lại” và “suýt nữa thì...” hay cảm giác “xao xuyến” trước những món ăn mà trước đây hồn cho là “phàm” hoặc là cái lần ông tát thằng con ông “tóe máu mồm máu mũi”,... Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến hồn càng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy mình ti tiện.

- Xác anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà hồn đưa ra để chống chế: “Ta vẫn có một đời sống riêng; nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn,..”. Trong cuộc đối thoại này, các thắng thế nên rất bể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn chỉ buông những lời thoại ngắn với giọng hát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu.

- Cuộc đấu tranh giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt là ẩn dụ cho cuộc đấu tranh giữa hồn và thể xác trong con người. Thể xác con người có bản năng riêng của nó đó là tiếng nói của bản năng có tác động ghê gớm vào linh hồn. Linh hồn phải luôn luôn đấu tranh để vượt lên những đòi hỏi không chính đáng của thể xác. Đồng thời, tác giả cũng khẳng định sự thống nhất giữa linh hồn và thể xác, giữa bản chất và biểu hiện hành động.

* Đối thoại giữa hn Trương Ba với những người thân

- Linh hồn thanh cao của Trương Ba đối lập hoàn toàn với xác hàng thịt thô phàm. Nghịch lí trớ trêu này dẫn đến một hệ lụy: mọi người thân xung quanh ông đều xa lánh ông. Người vợ mà ông rất mực yêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Với bà “đi đâu cũng được... còn hơn là thế y”. Bà đã nói ra cái điều mà chính ông cũng đã cảm nhận được: “ông đâu n là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”.

- Cái Gái, cháu ông giờ đây một mực khước từ tình thân: “tôi không phải là cháu ông. Ông nội tôi chết rồi”. Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái xẻng" đã làm "gãy tiệt i chồi non", "giẫm n nát cả cây m quý mới ươm" trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái điều cho cu Tị mà kết quả là... cái diều gãy nát.

Với nó, “Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy”. Nó trách móc và xua đuổi quyết liệt: “Ông xấu lm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”.

- Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, “khổ hơn xưa nhiều lắm”. Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra cả” khiến chị cũng khó có thể chấp nhận tình cảnh trớ trêu này. Chị thốt lên: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy... mỗi ngày thấy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thấy nữa...”.

- Tất cả mọi người thân của Trương Ba đều vô cùng đau khổ, với họ cái ngày chôn xác Trương Ba xuống đất họ đau, họ khổ nhưng “cũng kng khổ bằng bây giờ ”. Cái hệ lụy này bắt đầu từ sự thiếu trách nhiệm của những người như Nam Tào, Bắc Đẩu (bắt chết nhầm), và sự suy nghĩ đơn giản, hời hợt của Đế Thích (sửa sai bằng cách cho hồn Trương Ba sống dựa vào xác hàng thịt). Giá trị hiện thực phê phán của tác phẩm là ở đó.

- Hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ, tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua chát nhưng cũng đầy quyết liệt: “y đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác phải của ta ... Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tđánh mất mình? “Chẳng còn cách nào khác !”. Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Có thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại ! Kng cần !”. Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát.

* Đi thoại giữa hồn Trương Ba với Đế Thích

- Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba với Đế Thích trở thành nơi tác giả gửi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết. Hai lời thoại của hồn trong cảnh này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn...” và “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết ”.

- Ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời thoại này được lộ rõ. Con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, và cũng không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa.

- Hồn Trương Ba quyết định dứt khoát xin tiền Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình được chết hẳn chứ không nhập hồn vào thân thể ai nữa. Hơn nữa, quyết định này cần phải đưa ra kịp thời vì cu Tị vừa hết. Hồn Trương Ba thử hình dung cảnh hồn của mình lại nhập vào xác cu Tị để sống và thấy rõ “bao nhiêu sự rắc rối” vô lí lại tiếp tục xảy ra. Nhận thức tỉnh táo ấy cùng tình thương mẹ con cu Tị càng khiến hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát. Như vậy đã rõ, Trương Ba là con người nhân hậu, sáng suốt, giàu lòng tự trọng. Đặc biệt, đó là con người ý thức được ý nghĩa của cuộc sống.

- Cái chết của cu Tị có ý nghĩa đẩy nhanh diễn biến kịch đi đến chỗ “mở nút”. Dựng tả quá trình đi đến quyết định dứt khoát của nhân vật Hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã đảm bảo được tính tự nhiên, hợp lí của tác phẩm.

b. Nghệ thuật

- Hồn Trương Ba, da hàng thịt đã kết hợp hai yếu tố ảo và thực; ngôn ngữ đối thoại sắc sảo, giàu triết lí, mang tính tranh biện cao, ngôn ngữ độc thoại chân thực bộc lộ được tâm trạng, tính cách của nhân vật và quan niệm về lẽ sống đúng đắn.

- Lối dẫn truyện lôi cuốn, hấp dẫn giàu kịch tính, hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, góp phần phát triển tình huống truyện.

3. Chủ đề

Qua những xung đột giàu kịch tích, tác giả muốn gửi gắm một quan niệm: cuộc sống của con người thật đáng trân trọng, càng đáng trân trọng hơn nữa là được sống đúng bản chất của chính mình, sống trọn vẹn, hài hoà giữa xác thịt và linh hồn. Để hoàn thiện nhân cách, con người không ngừng đấu tranh với nghịch cảnh và chống lại sự dung tục trong cuộc sống của họ.

B. BÀI TẬP VẬN DỤNG

I. ĐỀ BÀI

1. Đsố 1

Phân tích đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt trong cảnh VII vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ.

2. Đs2

Phân tích giá trị hiện thực, phê phán của vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ).

3. Đề s3

Phân tích các gtrị nghệ thuật của vở kịch “Hồn Trương Ba, da ng thịt” của Lưu Quang Vũ.

II. GỢI Ý BÀI LÀM

1. Đsố 1

Bài viết cần nêu được những nội dung sau:

- Có thể nói, cái chết của Trương Ba là cái chết vô lí bởi vì sự vô tâm và tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu (bắt chết nhầm) cùng với sự hời hợt, nông cạn của Đế Thích (trả lại công bằng cho Trương Ba bằng cách cho hồn Trương Ba sống trong xác hàng thịt) đã đẩy hồn Trương Ba vào nghịch cảnh trớ trêu “Hồn Trương Ba mà các hàng thịt”.

- Linh hồn trong sạch, nhân hậu, bản tính ngay thẳng của Trương Ba nay phải sống nhờ mượn, vá lắp, tạm bợ và lệ thuộc nên không những không sai khiến được xác hàng thịt mà trái lại còn bị cái xác thô phàm ấy điều khiển. Đáng sợ hơn là hồn Trương Ba đang dần bị nhiễm độc bởi cái tầm thường của xác hàng thịt.

- Ý thức được điều đó, hồn Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt để tồn tại độc lập. Xác hàng thịt biết rõ những cố gắng của hồn là vô ích nên đã cười nhạo hồn, tuyên bố về sức mạnh âm u, đui mù ghê gớm của mình, ranh mãnh dồn hồn vào thế đuối lí hơn, ve vãn hồn thoả hiệp vì “chẳng còn cách nào khác đâu”, cả hai “đã hoà vào nhau làm một rồi”.

- Đối thoại với những lí lẽ ti tiện của xác thịt, hồn Trương Ba nổi giận, khinh bỉ, mắng mỏ xác thịt hèn hạ nhưng cũng đành ngậm ngùi chấp nhận cái nghịch cảnh hiện tại của chính mình, không thể cưỡng lại được đành phải quay về với xác hàng thịt một cách đau khổ và tuyệt vọng.

- Nghệ thuật: xây dựng đối thoại giàu kịch tính, đậm chất triết lí; ngôn ngữ nhân vật bộc lộ rõ tính cách và quan niệm đúng đắn về lẽ sống.

2. Đề số 2

Bài viết cần nêu được những nội dung sau:

- Tóm tắt ngắn trong vài dòng nội dung của vở kịch.

- Viết về cốt truyện đã có sẵn (cốt truyện dân gian), nhưng với tinh thần đấu tranh thẳng thắn của một người nghệ sĩ và qua lăng kính nghệ thuật tài năng của mình, Lưu Quang Vũ đã đặt ra nhiều vấn đề thời sự, xã hội có ý nghĩa phê phán sâu sắc:

+ Phê phán sự tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu, sự hời hợt, suy nghĩ đơn giản của Đế Thích. Họ là quan phụ mẫu, là những người có quyền sinh, quyền sát trong tay. Họ có thể bắt kẻ này chết, cho người kia sống nhưng chính họ lại là những người tạo ra bao ngang trái: “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết !”.

+ Phê phán những thói chạy theo ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hưởng thụ đến trở nên phàm tục, thô thiển.

+ Phê phán cả những kẻ lấy cớ tâm hồn là cao quý, đời sống tinh thần là quan trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Đó là biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm, chủ quan, của sự lười biếng không tưởng.

+ Tình trạng con người phải sống giả “bên trong một đằng bên ngoài một nẻo”, không dám và kể cả không được sống thực với bản thân mình là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa vì danh lợi.

- Đánh giá về nghệ thuật của đoạn trích (xem phần trên).

3. Đề số 3

Bài viết cần nếu được những nội dung sau:

- Nghệ thuật dựng cảnh: có sự kết hợp yếu tố kì ảo và hiện thực.

- Nghệ thuật tạo tình huống độc đáo và cách dẫn dắt xung đột kịch hấp dẫn.

- Ngôn ngữ kịch giàu chất triết lí, giọng điệu tranh biện, lời đối thoại sinh động, lời đc thoại thể hiện tâm trạng nhân vật.

Bài viết gợi ý: