Đề bài: Phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh.
Bài làm
Là một trong những người viết thơ tình có sức hấp dẫn nhất trong thơ Việt Nam từ đầu thập kỉ 60 (của thế kỉ XX), Xuân Quỳnh chinh phục bạn đọc bằng một tiếng nói dung dị, chân thành vừa giàu trực cảm vừa lắng sâu trải nghiệm. Tình yêu qua ngòi bút Xuân Quỳnh in đậm dấu ấn một cái tôi phụ nữ nồng nàn, táo bạo mà vô cùng tha thiết, chân thành: "Không sĩ diện đâu, nếu tôi yêu được một người - Tôi sẽ yêu anh ta hơn anh ta yêu tôi nhiều lắm - Tôi yêu anh dẫu ngàn lần cay đắng..." (Thơ viết cho mình và cho những người con gái khác). Sóng thường được xem là bài thơ tình thuộc loại hay nhất của tác giả , ra đời năm 1967. Sóng cùng một số bài thơ về đề tài tình yêu của Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Lưu Quang Vũ, Bằng Việt,... làm thành một mạch chảy thật ngọt ngào trong thơ ca kháng chiến hừng hực lửa chiến đấu. Nó cho thấy ý thức về cái tôi riêng tư bên cạnh cái ta cộng đồng, báo hiệu nhu cầu mở rộng quan niệm nghệ thụật về con người mà văn học từ sau năm 1975 sẽ coi là một trong những nội dung đổi mới có ý nghĩa quan thiết nhất.
Nhan đề bài thơ đã có ý nghĩa định hướng về một hình tượng xuyên suốt, do đó, người đọc dề bị ám ánh rằng nó chi có thể tìm đến thể thơ 5 chữ với cách ngắt nhịp biến hoá linh hoạt...
Thực ra, nhịp điệu của sóng có thể được diễn tả như Xuân Diệu từng làm, với thể thơ tự do, dào dạt và đầy tính tạo hình:
Anh không xứng là biển xanh
Nhưng anh muốn em là bờ cát trắng
Bờ cát dài phẳng lặng
Soi ánh nắng pha lê...
Bờ đẹp đẽ cát vàng
Thoai thoải hàng thông đứng
Như lặng lẽ mơ màng
Suốt ngàn năm bên sóng...
(Biển - Xuân Diêu)
Nhưng quả đúng là thể ngũ ngôn rất thích hợp để bắt vào nhịp sóng. Chẳng hạn lục bát, bị ràng buộc bởi niêm luật và số chữ 6-8, nên có khi nói sóng tình lơi lả mà không "lơi lả" được từ hình thức câu thơ đến nhịp điệu :
Sóng tình dường đã xiêu xiêu
Xem trong âu yếm cố chiều lả lơi.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Nam Trân, một thi sĩ thơ mới, dù đã chuyển câu thơ từ thất ngôn sang lục bát cho mềm mại hơn, thì con sóng ông tạo ra vẫn là những con sóng khuôn khổ :
Thuyền nan đủng đỉnh sau hàng phượng
Cô gái Kim Luông yểu điệu chèo
Tôi xuống thuyền cô cô chẳng biết
Rằng thơ thấy đẹp phải tìm theo
Đám dăm mắt mỏi vì chèo
Thuyền cô còn quẫy sóng gieo giữa dòng
Biết không cô hỡi, biết không
Chèo cô còn quẩy sóng lòng còn xao.
(Huế, đẹp và thơ)
Cách gieo vần ở những câu lục bát đã mềm, có sức toả lan và đong đưa hơn so với thể thất ngôn bới tập trung nhiều âm mở, nhưng vẫn là ý niệm "sóng lòng".
Biển của Xuân Diệu có ý thức tạo hình sóng bằng lối điệp âm, gieo vần, nhưng đó là con sóng trong hình dung, mơ tưởng: "Anh xin làm sóng biếc".
Vậy, cái đặc sắc trong bài thơ của Xuân Quỳnh là gì ?
Chắc chắn không phải ở cách lấy sóng để nói chuyện tình yêu vì điêu này các cụ đã làm tự đời nào! Cũng không nhất thiết rằng tạo được một nhịp điệu sóng bằng thể thơ 5 chữ mà sự phân tích vể nhịp, gieo vần có thể được thực hiện dễ dàng (vì đây là một thể thơ dễ sử dụng, dễ biến hoá ; hơn nữa, cái mềm mại, tự nhiên, linh hoạt của nó đã được khai thác rất nhiều từ thời thơ mới như Tiếng thu - Lưu Trọng Lư, Chùa Hương - Nguyễn Nhược Pháp,...).
Có lẽ cái khác biệt đáng kể nhất ở đây là con sóng của Xuân Quỳnh được nhìn bằng nhãn quan phụ nữ và tác giả cũng là người mượn sóng để bộc bạch tình yêu của người phụ nữ thành công nhất : thi sĩ đã tạo hình một con sóng mang tính nữ. Cũng phải lưu ý điều này : Sóng được in trong tập Hoa dọc chiến hào, năm 1967 - thời điểm cuộc chiến tranh chống Mĩ cứu nước diễn ra ác liệt và tình yêu lứa đôi thuần tuý chưa phải là đề tài phổ biến của thơ ca, nhất lại là tiếng nói của một cái tôi cá nhân đích thực, khao khát kiếm tìm bản thể và khẳng định phái tính. Gần như một "bông hoa lạ", Sóng ngay lập tức có được sức sống tự nhiên trong lòng bạn đọc.
Khổ thơ mở đầu rõ ràng không phải chỉ nhằm tạo hình tượng sóng (Xuân Diệu cũng làm điều này) mà hướng tới cắt nghĩa "bản thể sóng", cũng đồng thời là "bản thể tình yêu", là dòng nội tâm đầy xáo trộn của kẻ đang yêu :
Dữ dội và dịu êm
Ôn ào và lặng lẽ.
Đặc tính của sóng được Xuân Quỳnh khái quát thật giản dị mà cũng thật ấn tượng vì nó chứa đựng những nhận thức bất ngờ : bản thể sóng hoá ra gồm bao nhiêu đối cực, tưởng mâu thuẫn hoá ra thống nhất, luân chuyển không ngừng để mãi vẫn là mình. Giữa các đối cực, nhà thơ đặt một liên từ tinh tế : "và". "Và" chứ không phải "mà", bởi "dữ dội" không đối lập với "dịu êm", "ồn ào" không đối lập với "lặng lẽ", hơn nữa từ thái cực này, sóng luôn có thể chuyển sang thái cực khác. Những từ ngữ đặt ra ngoài văn cảnh là đối nghĩa, nhưng ở đây, lại là hai mặt của một thực thể, tạo hình con sóng sống động. Nhưng vì là con sóng nữ tính, nên nó không huỷ diệt, không đe doạ, càng không phải con sóng thần, mà là con sóng thơ, sóng yêu, cho nên nó đổ về bản năng người phụ nữ muôn đời. "Dịu êm", "lặng lẽ" là điểm rơi, điểm dừng của nhịp và cũng là của nhận thức. Trật tự từ ở hai câu ngỡ dẻ dans hoán dổi, thực ra lại không thể.
Tự sâu xa, sóng là một bản thể mang khát vọng :
Sóng không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể.
Người ta tranh cãi khá nhiều xem "Sóng không hiểu nổi mình" hay "Sóng không hiểu nổi mình" hợp lí hơn. Thực chất, một văn bản thơ luôn có đặc tính của một văn bản đa nghĩa, mở ra nhiềụ cách đọc thú vị bất ngờ (bởi thế mới xuất hiện quan niệm : tác phẩm là một cuộc giao tiếp giữa văn bản và người đọc, tác phẩm như một quá trình). Với cách hiểu thứ nhất, sóng - mình – bể là một hành trình trăn trở tự bên trong, để tìm ngay đến cái rộng lớn. Nỗi trăn trở này dữ dội hơn, và ý chí mạnh mẽ bộc lộ từ "tham vọng" được hiểu. Hành trình sóng còn được quy chiếu vẻ bản chất riêng của thi sĩ, nghệ sĩ. Cách hiểu này bắt đầu từ chính việc tìm mình, đọc mình mà lên đường. Còn sông - sóng (mình) - bể lại là một "bộ ba", trong đó sóng tìm mình, đã phải qua những vấp váp, những ngăn trở, rồi vượt thoát giới hạn. Bộ ba quan hệ này chắc chắn sẽ tạo ý nghĩa mới cho hình tượng. Thực chất, bản thể sóng là không đối (dù ở sông, hay bể) nhưng nó cần một không gian thực - sự - là - mình để có thể bộc lộ được đầy đủ bản thể đó. Như vậy, sóng là bản thể, "sông", "bể" là những khách thể không gian để con sóng tự ứng chiếu mình. Hành trình tìm kiếm này không dẻ dàng (các động từ hiểu, tìm ra tận, cách phủ định không hiểu cho thấy một nội tâm nhiều thao thức , một ý thức dám trả giá cho hành động vượt không gian). Bao giờ sự tự ý thức về không gian tồn tại cũng kèm theo khát vọng phá vỡ nó, bứt thoát khỏi nó, cho dù có thể phải chấp nhận rạn nứt. "Sóng tìm ra tận bể" đã không chỉ là chuyện từ bỏ một không gian chật chội, tìm đến tình yêu rộng lớn, phóng khoáng mà còn là hành trình tìm được không gian đúng nhất với sự tồn tại của bản thể mình. Chuyện "sóng" ở đây dường như rộng hơn chuyện tình yêu. Nhưng cái ý gợi mở này được nói bằng giọng tự sự của tình yêu nên không hể lên gân, gượng gạo : tình yêu làm nảy sinh niềm da diết vể một không gian rộng lớn - nơi những quan hệ nhiêu chiều của cái tôi riêng tư cá thể được phát lộ và cái lớn lao đem lại cho nó ý thức sâu sắc hơn về mình.
Dù vậy, với tuổi trẻ, băn khoăn sâu thẳm nhất, dữ dội nhất về bản thể chẳng thể nào nằm ngoài khao khát tình yêu, thứ tình cảm kì lạ khiến mỗi cá nhân tự
phá vỡ cái tôi của mình, nhập vào một cái tôi khác để được "là mình" trọn vẹn :
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ.
Rõ ràng, chuyện "ngày xưa", "ngày sau" là chuyên vể bản thể, là ngọn nguồn và căn cốt của sự sống. Dòng chảy thời gian minh chứng cho sự vĩnh hằng của khát vọng tình yêu, của sóng. Con người, từ A-đam - E-va, đã khởi sinh bàng tình yêu, tồn tại bằng tình yêu, và mãi bồi hồi bởi hai tiếng đó, nhất là nỗi "bồi hồi trong ngực trẻ". Bản thể sóng bỗng nhập vào bản thể người khi nhân vật em bỗng nhận ra mình mang khát vọng tình yêu, nhưng đó là một hành trình chưa đến đích : mang trái tim yêu, con người bỗng dưng khao khát muốn nhận thức đầy đủ vể mình, về thế giới quanh mình, về giá trị của sự sống. Từ "sóng" có thể gợi ra nhiều biểu tượng khác nhau, trong đó con sóng - tình yêu chỉ là một quy ước quen thuộc, về khía cạnh này, Xuân Quỳnh không tạo nghĩa mới cho hình tượng sóng. Vậy phải chăng dùng hành trình sóng như hành trình nhận thức bán thể để đi đến một cách cắt nghĩa tình yêu mới là nét đặc sắc của nữ thi sĩ ?
Cảm xúc thơ làm xuất hiện một quan hệ tương chiếu : em - sóng. Từ khổ 3, em sẽ song hành cùng với sóng, không chỉ song hành vì tương hợp, mà có lúc em và sóng hoà nhập hoàn toàn. Trước không gian biển mênh mông rộng lớn, người già hay nghĩ về sự hư vô, nhỏ bé của kiếp người ; kẻ tráng chí hùng tâm "Muốn vượt bể Đông theo cánh gió - Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi" (Phan Bội Châu) ; kẻ da cảm lại thấy "Vắng cánh buồm một chút cũng cô đơn" (Hữu Thỉnh) ; người ưa triết lí nghĩ về một "biển lớn cuộc đời sâu thẳm", muốn có anh và em "cắn chung hạt muối dời" - vừa là tình vừa là nghĩa (Vũ Quần Phương) ; ở một phương trời khác, Huy-gô xót xa cho những kiếp đời "trong đáy lạnh vùi tan" - cội nguồn cảm xúc vẫn là ám ảnh hư vô nhưng bi tráng. Xuân Quỳnh "trước muôn trùng sóng bể", nghĩ một cách cụ thể và giản dị : "Em nghĩ về anh, em" nhưng ý thơ không cạn hẹp mà mở ra vừa gần gũi, vừa vô tận bởi vì "anh - em" đã được tạo một quan hệ mới nhờ câu thơ tiếp theo : "Em nghĩ vẻ biển lớn - Từ nơi nào sóng lên ?". Câu hỏi "Từ nơi nào sóng lên ?" nhẹ lơi như hơi thở, tưởng bâng quơ mà hoá ra bận bịu lòng người, vẫn là ước muốn truy tìm đến tận cùng bản thể : Con người từ đâu đến ? Nó sẽ đi đến đâu ? Tinh yêu từ nơi nào đã lớn lên như vậy?
Cho nên, cắt nghĩa về tình yêu nghĩa là... không cắt nghĩa :
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu ?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
Nếu có thể tìm ra được "gió bắt đầu từ đâu" thì cũng chỉ là tìm ra theo cách của khoa học tự nhiên. Còn các ngọn gió làm lan dậy- sóng tình lại khác. Chảng hạn ở câu ca dao : "Gió sao gió mát sau lưng - Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này" thì gió bắt đầu từ đâu ? Và như thế, thiên nhiên bí ẩn, cũng như tình yêu - thuộc tính người - bao giờ chả ẩn mật, khó dò : "Em cũng không biết nữa...". Cách cất nghĩa này không phải mới mẻ vì Xuân Quỳnh tiếp bước tiền nhân khẳng định quy luật "tình yêu là bí ẩn" (chựa nói đến việc người ta sẽ còn tìm mọi cách bí ẩn hoá nó lên nữa) mà điểm mới chính là ờ cách nói của một người phụ nữ đầy trực cảm và thành thật. Thử so sánh với Xuân Diệu chẳng hạn : vừa quả quyết "Làm sao cắt nghĩa dược tình yêu !" rồi lại tìm cách trả lời "thế là yêu" ("Có nghĩa gì đâu một buổi chiều - Nó chiếm hồn ta bằng nấng nhạt - Bàng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu" - "Vì sao ?") - nghĩa là cảm xúc Xuân Diệu bị chi phối bỡi lô gích duy lí. Xuân Quỳnh, bắt đầu từ quan sát tự nhiên (chuyện sóng, gió) rồi lắc đầu "Em cũng không biết nữa". Mấy chữ "cũng không", "nữa" chính là cách nói "rất con gái". Nếu làm theo cách lập luận của Xuân Diệu, thì Xuân Quỳnh phải đảo hai câu dưới lên trên, khổ thơ sẽ rất lí tính, tỉnh táo và thậm chí hơi...vô duyên nữa. Câu thơ cuối lơi ra những thanh bằng, mơ hồ như hơi thở nhẹ, tiếng buông hơi, nhưng ngầm ẩn một niềm hạnh phúc được cảm nhận tình yêu đang thì hiện tại.
Và vì thế mà ào ạt một con sóng yêu, một con sóng nhớ, sóng thức đầy khao khát muốn tràn dâng thân thể, và đúng là ở đây như có một "thân thể - sóng" :
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Có thể nói đây là khổ thơ hay nhất, sống động nhất của bài thơ. Nó là khổ thơ không chỉ của (về) cảm xúc, mà đặc biệt hơn, nó tượng hình một thân thể sóng đang dạt dào hạnh phúc, cồn cào nỗi nhớ nhung và khao khát. Không gian "dưới lòng sâu", "trên mặt nước" mất đi tính khái quát, trở nên cụ thể, thân thiết như căn phòng hạnh phúc khi nó dẫn đến một liên tưởng ngẫu hứng đầy hữu lí : con sóng "không ngủ được". Đâu phải vì tiếng sóng mà biết con sóng thức! Phải là con sóng thao thức mà người phụ nữ thuở xưa.đã từng bộc bạch " Đêm nằm lưng chẳng bén giường - Trông cho tới sáng ra dường gặp anh" (ca dao). Hoàn toàn có thể tin con sóng "không ngủ được" là con sóng cuộn trào của cả tâm thể và thân thể, con sóng nhớ tràn ngày, đêm, tràn không gian, thời gian. Thơ tràn dòng theo nhịp hối thúc của nỗi nhớ. Những tương phản tạo một hình tượng sống động. Lối điệp từ cũng góp phần tạo hình con sóng xô bờ dào dạt. Em và sóng đến đây hoà làm một dổ rồi lại tách ra trong quan hệ song chiếu vừa tương đồng vừa khác biột : "Lòng em nhớ đến anh - Cả trong mơ còn thức". Con sóng thức vì nhớ, còn em vì nhớ, thức cả trong những giấc mơ. "Sóng thức" vẫn còn lí tính. Nhưng "em mơ" đã là mộng mị, là tiềm thức, vô thức. Xuân Quỳnh nối dài đời sống bằng giấc mơ, và bằng cách đó, phá tan khoảng cách thực - mộng. Lí tính và phi lí hoà hợp nhau ở những chỗ như vậy, những cách nói như vậy, và nó dứng với bản chất của tình yêu. Trước kia, Nguyễn Du cũng đã diễn tả tuyệt hay trạng thái yêu mê say đắm "Chập chờn cơn tỉnh cơn mê" . Không phải sự táo bạo nào cũng chứng tỏ một tình yêu chân chính, nhưng tình yêu chân chính không thể thiếu mê say, cuồng nhiệt.
Sóng và em tương đồng, tương thích, vừa phản chiếu lẫn nhau vừa bồi đắp cho nhau. Mối quan hệ đó còn được biểu hiện cả trong cách nói, và nhất là sự gối trùng lên nhau cuồn cuộn. Chẳng hạn, từ khổ 1, con sóng còn đứng riêng như một thực thể, khổ 2 đã có giọng "em" ("ôi con sóng ngày xưa..."), có liên tưởng "ngực trẻ - ngực sóng" ; đến khổ 3 thì "em" ở thế chủ động, đối diện : "trước muôn trùng sóng bể". Hoá ra "sóng" chỉ là một cái cớ để em "nghĩ về anh, em", nhưng lại đồng thời phải nghĩ về "biển lớn", "sóng lên". Khổ 4 tiếp tục với những "tra vấn" "nghi vấn" về sóng : "Sóng bắt đầu từ gió - Gió bắt đầu từ đâu ?" nhưng rồi không sao tách được khỏi chuyện anh - em : "Khi nào ta yêu nhau". Khổ 5 : con sóng nhớ bờ không ngủ được cũng là em nhớ anh thức cả trong mơ.
Từ đầu đến càu "Cả trong mơ còn thức", từ ngữ, ý tưởng trùng điệp, ào ạt. Nếu muốn phân tách rõ ràng hoàn toàn có thể lập một bảng tương chiếu sóng - em (tần số xuất hiện, sự hoán đổi vị trí, chức nàng của từ ngữ, chẳng hạn có khi "sóng" là chủ từ, có khi "em" là chủ từ, "sóng" là bổ ngữ,...) sẽ thấy một hình tượng "sóng - em" quấn bện rất thú vị.
Mấy khổ thơ tiếp theo cho thấy một Xuân Quỳnh "già" hơn, triết lí hơn, thấp thoáng nét lo âu, và nếu xét ở sức tạo hình, gợi hình, ngôn từ thơ không dào dạt như những khổ đầu. Cũng bởi Xuân Quỳnh không chỉ là một phụ nữ hiện đại, mà còn mang đậm bản sắc phụ nư phương Đông, cho nên nhà thơ luôn quan niệm tình yêu gắn với lòng chung thuỷ :
Dầu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương.
Chuyện cùng nhau "lên bắc ngược nam", "lên thác xuống ghềnh" thì có từ thời... ca dao. Nhưng coi "anh" như cái la bàn trong hành trình xuôi ngược nhiều bất trắc, thì đó phải là một người gửi niềm tin trọn vẹn ở tình yêu. Hơn nữa, sự chung thuỷ này không đến từ "ý thức trách nhiệm", từ cái nghĩa vợ chồng, mà là một sự chung thuỷ của tình yêu, chung thuỷ đến cả từng ý nghĩ. Nếu "nghĩ" là trạng thái thường trực (cũng như "nhớ") thì "hướng về anh" giống như một xác tín.
Bởi vì nhìn vào sóng :
Ở ngoài kia đại dương Trăm ngàn con sóng đó Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Để thấy sự thuỷ chung trọn vẹn.
Đó chính là niềm tin bồng bột, trong sáng và mãnh liệt của tuổi trẻ mà Xuân Quỳnh nhiều lần nhắc đến : "Tay ta nắm lấy tay người - Dẫu qua trăm núi nghìn đồi cũng qua",...
Nhưng sự nhạy cảm của người phụ nữ sẽ xui khiến ước vọng lớn lao luôn đi kèm những thoáng lo âu, huống chi bản tính Xuân Quỳnh vốn cả lo:
Cuộc đời tuy dài thế Năm tháng vẫn đi qua Như biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa.
Không phải lo về sự hữu hạn của tình yêu, mà ngại về cái mong manh, ngắn ngủi của đời người: cuộc đời tưởng là dài, nhưng trong dòng thời gian chảy trôi bất tận, giữa trời biển bao la, con người có thể chỉ là một thoáng phù vân. Biển lớn nhưng còn những không gian lớn hơn biển. Hoá ra cả thời gian (cuộc đời) không gian (biển cả) vẫn cứ là hữu hạn so với khát vọng sống và yêu của con người. Làm sao để yêu nhau cho đủ ?
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa hiển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.
Đây là khát vọng đã có từ huyền thoại, khi nàng tiên cá gập bi kịch tình yêu thì tan thành bọt sóng để hoá thân vào vĩnh cửu.
Xuân Quỳnh hay bị ám ảnh vé thời gian, và cùng với nó, là ám ảnh về sự mất mát của tuổi trẻ, sự phôi pha của tình yêu: "Tôi đã biết thời gian rồi cũng hết - Hôm nay non mai cỏ sẽ già", " Tôi chẳng nói điều chi về vĩnh viễn", "Bao ngày tháng đi vể trên mái tóc - Chỉ em là đã khác với em thôi"). Trong nỗi lo âu mang tính người ấy, niềm tin vào tình yêu càng cháy bỏng. Yêu để "được tan ra", được thành trăm, thành ngàn con sóng, để vượt khỏi mọi giới hạn không gian, thời gian mà trường tồn cùng tình yêu... Khát vọng tan, đó là khát vọng vô hạn hoá cái mênh mông của nội tâm, bất tử hoá cái hữu hạn của thân thể. Tình yêu đi từ những ý nghĩ, những băn khoăn rồi thành hữu hình với những cảm xúc thân thể đến đây bỗng "siêu thăng" trở thành khát vọng chung của con người. "Tan" là hoà vào vĩnh cửu, cũng là một tình yêu vị tha bởi nó không đi cùng ý đồ chiếm hữu. Chính ở đây, nó tìm được sức mạnh. Đến khổ cuối này, cảm xúc thơ ào ạt trở lại, "sóng" và "em" đã không còn muốn tách chia để đối sánh mà "em" muốn "tan" thành sóng, và biển lớn đã là tình yêu, tan thành sóng cũng là tan trong tình yêu... Sau này, Vi Thuỳ Linh sẽ diễn đạt "bạo liệt" hơn, cá tính hơn "em yêu anh đến tan vào anh". Đó cũng là một sự hoà nhập trọn vẹn. Như vậy tình yêu luôn là khát vọng phá vỡ những giới hạn để kiếm tìm mối giao hoà tuyệt đối, khi mà nỗi khắc khoải, hoang mang vẫn còn đó ; càng khắc khoải, hoang mang càng tiết lộ tính chất đam mê của tình yêu (như Xuân Diêu diễn đạt "Có thể nào qua Vạn Lí Trường Thành - Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật", như chính Xuân Quỳnh tâm niệm "Biết yêu anh cả khi chết đi rồi").
Bài thơ Sóng khai triển hình tượng sóng trong sự tương ứng với em tạo thành một cấu trúc song song, nhưng suy cho cùng chính là một hành trình truy vấn bản thể : bán thể của cái tôi trữ tình trong khát vọng được bất tử hoá, vĩnh cửu hoá cùng tình yêu. Và nó cảm động sâu xa ở chỗ : hình như cái "nguyên tử" tạo thành con người chính là tình yêu, như câu thơ của Uýt-man : "từng nguyên tử của em cũng thuộc vể anh". Với ai mà từng "nguyên tử người" thuộc về tình yêu, kẻ đó sẽ là người hạnh phúc.