Thiên nhiên là đề tài muôn thuở của thi ca. Các thi sĩ đến với thiên nhiên bằng tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và đầy mến yêu. Không ai quên thế giới Bồng Lai tiên cảnh trong thơ Lý Bạch, núi rừng hữu tình trong thơ Nguyễn Trãi, làng quê mộc mạc đơn sơ trong thơ Nguyễn Khuyến. Và cũng không ai quên trong phong trào Thơ Mới (1930 – 1945) từng có một tiếng reo “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu, một tình cảm mênh mang với “Tràng giang” của Huy Cận và một nỗi niềm hẫng hụt, chơi vơi với “Đây thôn Vĩ Giạ” của Hàn Mặc Tử.
Thiên nhiên chớm vào mùa thu trên đất Bắc trong “Đây mùa thu tới” thật đẹp mà cũng thật buồn – một vẻ đẹp, một nét buồn rất mới, rất khác so với thơ ca trung đại.
Nếu như cảm quan nghệ thuật của thi ca trung đại là: lấy thiên nhiên làm chuẩn mực vẻ đẹp cho con người – như Nguyễn Du đã từng tả Thúy Vân: “Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang. Hoa cười ngọc thốt đoan trang. Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” (Truyện Kiều) – thì với Xuân Diệu – “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” – con người là vẻ đẹp chuẩn mực cho thiên nhiên:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tangTóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng.”
Chưa ai có một cách so sánh lạ như Xuân Diệu. Cây liễu đẹp như người thiếu nữ đứng xõa tóc “chịu tang”. Mỗi sợi tóc là một sợi buồn, mỗi nhành liễu là một sợi tóc. Từ cổ chí kim, không có nỗi buồn nào thấm thía đau đớn bằng nỗi buồn chịu tang. Bao nhiêu nước mắt rơi xuống mà nỗi buồn chẳng vơi. Rặng liễu với những sợi tơ liễu được kết bằng những lá liễu dài gối lên nhau “hàng hàng” rủ xuống như “lệ” giăng mắc đầy một khoảng trời làm nỗi buồn chớm thu như càng tăng thêm, thấm thía hơn. Và trong nỗi buồn ấy còn gợi lên một nỗi đau mất mát:
“Hơn một loài hoa đã rụng cànhTrong vườn sắc đỏ rũa màu xanhNhững luồng run rẩy rung rinh láĐôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”
Ngày lại ngày trôi qua, thu về, cảnh vật biến đổi, cây cối xơ xác trơ trụi, khẳng khiu như đang run rẩy, khẽ rùng mình trong gió se se lạnh: “Đã nghe rét mướt luồn trong gió”. Cảm nhận về cái rét đến trong gió của Xuân Diệu là một cảm nhận mới. Thiên nhiên xôn xao, cựa mình – điều ấy thể hiện qua nghệ thuật sử dụng phụ âm “r” (rụng/rũa/run rẩy/rung rinh) và phụ âm “m” (mỏng manh) – không giống thiên nhiên trong thơ cổ mang nét tĩnh lặng, ngay cả khi “Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo” (Mùa thu câu cá – Nguyễn Khuyến) thì cả không gian thiên nhiên thu vẫn chủ yếu là tĩnh lặn Cùng với “lá vàng” trong thơ Nguyễn Khuyến, ai cũng biết bức tranh “Mùa thu vàng” của danh họa Lê-vi-tan, nhưng không đâu có một màu vàng mới và độc đáo như màu vàng của đất trời vào thu trong “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu. Đó không phải là những đốm vàng nhỏ mà là cả một “không gian vàng” – một màu vàng “mơ phai” rất riêng rất khó lẫn. Đó là màu vàng của “cái hồn thu qua sắc lá” (Tạ Đức Hiền) làm mùa thu bớt buồn và thêm thi vị, thêm đáng yêu. “Mùa thu tới!” – Xuân Diệu đã nhận được bức thông điệp của mùa thu và đã reo lên sung sướng: “Đây mùa thu tới! Mùa thu tới!”. Giai điệu rộn rã của tiếng reo khiến ta cảm giác hình như Xuân Diệu đang hát lên tiếng hát khát vọng giao cảm với cuộc đời. Bước chân đến với trời thu của thi sĩ đầy “giục giã”, “vội vàng”.
Cùng mang vẻ đẹp buồn truyền thống, nhưng nếu như thiên nhiên trong “Đây mùa thu tới” đẹp thướt tha, thì thiên nhiên trong “Tràng giang” lại mang vẻ đẹp hùng vĩ rợn ngợp của “trời rộng”, “sông dài”:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song song”…”Nắng xuống, trời lên sâu chót vótSông dài, trời rộng, bến cô liêu”
Thiên nhiên ở đây đậm sắc màu cổ điển. Dòng sông mênh mang, chảy dài giữa không gian vắng lặng, bát ngát. Những con sóng gối lên nhau lớp lớp không bao giờ dừng như nỗi buồn miên man không dứt. Song song với con thuyền buông trôi, thụ động phó mặc cho cuộc đời, không một chút hi vọng là biểu hiện của nỗi buồn chia lìa, li biệt. Bao nhiêu ngả nước, bấy nhiêu ngả sầu, cảnh ở đây rất sầu: từ “con thuyền”, “cành củi khô” đến “nước”, “sóng” và cả “bờ xanh”, “bãi vàng”, “bến cô liêu” đều mang nỗi sầu lớn. Nỗi “buồn điệp điệp” triền miên lan tỏa xuyên suốt bài thơ và cồn cào, day dứt nhất ở hình ảnh cuối bài:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Nỗi buồn của Huy Cận miên man không dứt như sóng nước mênh mông bất tận, theo sóng nước lan tỏa rất xa, buồn hơn nhiều so với Thôi Hiệu (Đời Đường – Trung Quốc): “Yên ba giang thượng sử nhân sầu” (Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?). Từ nỗi buồn đằng dặc ấy, vẻ đẹp hiện lên là vẻ đẹp mênh mang đất trời. Không gian mở rộng ra mọi chiều cả về độ dài – rộng, cao – sâu. Đó là cái đẹp lặng lẽ, rợn ngợp của không gian sông nước quen thuộc, gần gũi được Huy Cận dựng lên bằng hình ảnh đơn sơ, thành những nét vẽ tinh tế, giàu màu sắc cổ điển mà vẫn mới. Thấm đượm trong cảnh là một linh hồn “mang mang thiên cổ sầu” và một cái gì như thể là linh hồn ngàn xưa của dân tộc vẫn còn vương vấn nơi bãi rộng sông dài với “bến cô liêu”, với “bèo dạt”, “mây”, “cánh chim”, “bóng chiều”, với “khói hoàng hôn” với tình quê đậm đà, da diết cháy trong lòng thi nhân.
Thiên nhiên được khúc xạ qua tâm hồn thi sĩ, mang nỗi buồn của nhà thơ. Cái đẹp thực, đẹp ảo của cảnh là cái đẹp trong sự thảng thốt của tác giả. Nỗi buồn mênh mang từ hoàn cảnh của nhà thơ là nỗi buồn gắn với thiên nhiên. Trong “Tràng giang”, “nỗi buồn thấm trong từng câu chữ”, đầy như dòng sông Hồng cuồn cuộn chảy.
Trong “Đây mùa thu tới” nỗi buồn tỏa ra từ niềm cô đơn, quạnh vắng, còn trong “Đây thôn Vĩ Giạ” nỗi buồn lại nhè nhẹ cất lên từ ý thức bị lãng quên của nhà thơ. Nhưng khác với “Đây mùa thu tới” và “Tràng giang”, “Đây thôn Vĩ Giạ” là một bài thơ “có bước nhảy cảm xúc” (Vũ Quần Phương), có sự chuyển đổi cảm xúc rất nhanh, rất nhuần nhị, tinh tế. Bài thơ có ba khổ thì mỗi khổ là một câu hỏi gắn với tâm trạng khác nhau của Hàn Mặc Tử, gắn với những vẻ đẹp khác nhau của thiên nhiên xứ Huế thơ mộng. Ở khổ một, thi sĩ đang vui sướng “nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”, ngắm “vườn ai mướt quá xanh như ngọc” thật đẹp đẽ của thôn Vĩ Giạ. Đó là vẻ đẹp nguyên sơ – thánh thiện, vẻ đẹp tươi tắn, rạng rỡ, trinh nguyên của xứ Huế hiện lên rõ nét trong dòng hoài niệm của Hàn Mặc Tử. Đến khổ thứ hai, cảm xúc của thi nhân chợt lắng xuống thoáng buồn:
“Gió theo lối gió mây đường mây Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay”
“Đây mùa thu tới” nói về nỗi buồn tàn lụi, chia lìa: “Hơn một loài hoa đã rụng cành, trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh” với cách nói phiếm định: “hơn một” đệm màu sắc văn hóa phương Tây, đầy mới mẻ. “Tràng giang” nói về nỗi buồn li biệt của cảnh: “Con thuyền xuôi mái nước song song” mang dấu ấn cổ điển. Và “Đây thôn Vĩ Giạ” cùng nói về nỗi buồn lẻ loi, tan tác: “Gió theo lối gió mây đường mây, dòng nước buồn thiu hoa bắp lay” nhưng không đơn giản chỉ có thế mà còn là nỗi buồn xa cách, bị lãng quên. Dòng sông Hương lững lờ trôi là dòng “sông trăng” chất chở nỗi buồn nhẹ nhàng, man mác của lòng người. Từ cái đẹp trinh nguyên của xứ Huế mộng mơ thực tại, dòng liên tưởng của Hàn Mặc Tử hướng về một cái dẹp mờ ảo của cảnh vật trong sự chia cách. Cũng như nỗi buồn của Xuân Diệu trong “Đây mùa thu tới”, nỗi buồn của Hàn Mặc Tử ở đây cũng thật lặng lẽ, nhẹ nhàng chứ không phải triền miên, dữ dội như sóng của Huy Cận trong “Tràng giang”.
Với thể thơ thất ngôn truyền thống, nhìn chung, nỗi buồn của thơ Xuân Diệu là nỗi “buồn không nói”, của thơ Huy Cận là nỗi “buồn điệp điệp”, của thơ Hàn Mặc Tử là nỗi “buồn thiu”. Thiên nhiên trong cả ba bài thơ đều đẹp và buồn bởi thiếu một tình người. Tình người mà ở mỗi bài thơ được thi nhân nhắc đến là để xoa dịu nỗi buồn bị quên lãng (“Đây thôn Vĩ Giạ”); xóa cô đơn, rợn ngợp trong lòng, tìm đến một tình quê ấm áp (“Tràng giang”); xóa cái lạnh của lòng người, tìm đến một tình yêu, một khát vọng giao cảm với thiên nhiên, với cuộc đời (“Đây mùa thu tới”). Các nhà thơ có sự cảm nhận tinh tế về thiên nhiên cũng như đã biểu hiện một cách sâu sắc thế giới tâm trạng, cảm xúc của mình trước thiên nhiên đó.
Thiên nhiên trong thơ mới là một đóng góp về mặt tư tưởng văn hóa của người Việt Nam. Điều đó đã chứng tỏ một tình yêu quê hương đất nước của các nhà thơ mới nói chung và của Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử nói riêng.