Bài soạn chi tiết đoạn trích “TÌNH CẢNH LẺ LOI CỦA NGƯỜI CHINH PHỤ” 

trích “CHINH PHỤ NGÂM” của ĐẶNG TRẦN CÔN

 

Câu 1: Hãy chỉ ra các yếu tố ngoại cảnh thể hiện tâm trạng người chinh phụ và ý nghĩa diễn tả nội tâm của các yếu tố đó.

Hàng loạt các yếu tố ngoại cảnh được đề cập trong đoạn trích trên: hiên, rèm, chim thước, ngọn đèn khuya, cảnh đêm khuya, tiếng gà gáy, bóng cây hòe, cành cây đẫm sương, tiếng côn trùng, cảnh mưa…=> một không gian nhỏ bé, hẹp và tù túng.

- “Hiên vắng”, “Rèm thưa”: người chinh phụ loay hoay với không gian căn phòng chật hẹp của mình cùng những hành động lặp đi lặp lại vô định, kéo rèm rồi lại buông rèm. Trong sự lay lắt, nặng trĩu, nàng chỉ biết “gieo từng bước” với tâm thế buồn tủi, cô đơn lấn át cả trái tim và lí trí.

- “chim thước” là một chi tiết vô cùng độc đáo, sáng tạo của nhà thơ. Con chim thước biểu tượng cho những điều tốt lành, vui vẻ, may mắn khi chúng xuất hiện, nhưng thước lại “chẳng mách tin”, không thể kiếm tìm nơi đâu một chút niềm vui nho nhỏ. Xung quanh nàng lúc này chỉ là sự hoang vắng, bồn chồn không yên.

- “ngọn đèn”: người chinh phụ tìm đến ngọn đèn để gửi gắm tâm sự nhưng đứng trước ngọn đèn lúc này có nghĩa là nàng đang đối diện với chính bản thân mình, bởi lẽ “ngọn đèn” là một vật vô tri vô giác thì làm sao có thể cùng nàng chia sẻ san sớt tâm tư nỗi lòng. => Nỗi đau đớn càng tăng thêm và như đang sát muối chà rát trái tim của cô. “Hoa đèn” kia được so sánh với “bóng người” thật khập khiễng nên mới kết thúc câu thơ với hai từ “khá thương” cùng dấu chấm than đầy sự thương cảm. Vẻ đẹp của người phụ nữ chẳng còn giữ được bởi đã tàn phai theo năm tháng mỏi mòn chờ đợi, không còn hoa lệ như thuở ban đầu đầy thơ mộng nữa.

=> Những hình ảnh khiến tim nàng đau nhói, gương mặt bần thần không còn xuân sắc và nước mắt chẳng thể giữ được khô ráo, trên mí mắt luôn rung rung, tủi thân, nàng có thể òa khóc bất cứ lúc nào. => Nỗi cô đơn đã ám ảnh, đeo bám nàng không buông.

- Tiếng gà gáy “eo óc” mệt mỏi báo tin canh năm đến, không gian thật sự quá vắng lặng, buồn, tĩnh mịch.

- Hình ảnh “hòe”: cây hòe “phất phơ rủ” gợi lên không gian chẳng còn chút sức sống, lờ mờ ánh sáng, hoang vắng và nhạt nhẽo.

=> Cảnh vật xung quanh người chinh phụ đều nhuốm màu vô cảm, đau thương, vô định, lạc lõng và thật sự đáng sợ. Đứng một mình trong không gian ấy, nàng cảm thấy cô độc, chơi vơi và nhỏ bé.

- “tiếng trùng mưa phun”: Sự buốt giá, quạnh hiu trong tâm hồn người chinh phụ và dồn nén biết bao nhiêu là ảo não, ước mong được ai đó đồng cảm, sẻ chia vơi bớt dù đó là một chút gió thoảng hay thiên nhiên cảnh vật câm lặng xung quanh biết lắng nghe. Nhưng tất cả giờ đây đã không còn thể hòa nhập cùng nàng => Nỗi lòng đã hoàn toàn phơi bày ra cảnh vật. Nỗi xót xa và cay đắng giày vò cõi lòng nàng. Cảnh vật bên ngoài đã chuyển thành tâm cảnh.

=> Nghệ thuật ngụ cảnh tả tình, mượn cảnh vật để bộc lộ cảm xúc, tâm trạng nhân vật.

Câu 2: Theo anh (chị), những dấu hiệu nào cho thấy nỗi cô đơn của người chinh phụ?

Những lời than thở than vãn sâu tận đáy tâm hồn của người chinh phụ đã thể hiện được nỗi cô đơn, cô độc, lẻ loi, đơn chiếc.

- Nỗi sầu thể hiện qua những hành động lặp đi lặp lại:

Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước

Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen”

 Người chinh phụ bước từng bước đi chậm chạp, dạo hiên vắng một mình, kéo rèm lên rồi lại buông rèm xuống, cứ mãi như thế với tâm thế buồn tủi, cô đơn lấn át cả trái tim và lí trí.

- Dáng vẻ buồn rầu “chẳng nói nên lời” chỉ biết chịu đựng trong câm lặng, trong bóng tối, một mình biết, một mình hay.

- Người chinh phụ cố dằn lòng cất giấu niềm đau, tô son điểm phấn, chơi vài nốt nhạc, gảy vài phím đàn để cảm nhận được những âm thanh trong trẻo, thơ mộng, mong tìm thấy thú vui cho khuây khỏa, khỏa lấp tâm trạng tồi tệ hiện tại. Nhưng nào có hay, nó đã chiếm hết thảy không gian nơi đây, tràn khắp cơ thể, lấn át cả trái tim và suy nghĩ nên nàng mới rơi vào tình cảnh “mê mải”, “lệ lại châu chan” khi nhìn vào gương, thấy hình ảnh thê thảm, tàn phai nhan sắc của mình. => Nàng lún sâu hơn trong tuyệt vọng, chạm đáy nỗi đau, không lối thoát.

“Hương gượng đốt hồn đà mê mải

Gương gượng soi lệ lại châu chan

Sắt cầm gượng gảy ngón đàn

Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng”

- “sắt cầm”, “uyên” là những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho tình yêu của đôi lứa nam nữ, nghĩa tình phu thê, vợ chồng chung thủy sắt son. Bên nhau để lại quá nhiều kí ức, kỉ niệm và kỉ vật tình yêu nên người chinh phụ không dám cầm tay chạm vào bất cứ thứ gì gợi nhắc đến tình yêu đẹp của nàng, những ngày tháng đoàn tụ bên nhau, vì nó sẽ khiến nàng đau khổ hơn gấp bội lần.

Câu 3: Hãy cho biết vì sao người chinh phụ đau khổ?

Nàng đau khổ vì nàng phải sống trong cảnh chồng ra trận nơi biên cương xa xôi, nàng không hề có một chút tin tức gì về chàng, ngày trở về cũng không, thực sự lạc lõng, vô định, lo âu, thấp thỏm.

- Nàng cô độc còn bởi nàng đã chờ đợi quá lâu, da diết mong muốn được đoàn tụ, được có một mái ấm gia đình trọn vẹn, bữa cơm ấm cúng đầy đủ thành viên, khao khát một tình yêu đôi lứa trọn vẹn.

- Nàng đau vì quanh quẩn trong nhà, ngoài sân vườn và phải thấy những vật dụng đã gắn liền với người chồng gợi lại bao kỉ niệm, kí ức khiến nàng ray rứt khôn nguôi.

- Và nguyên nhân sâu xa: cuộc chiến tranh phi nghĩa làm biết bao gia đình chia lìa, con xa mẹ, chồng xa vợ, cha xa cách những đứa con thơ, người chồng ra trận có thể mất mạng bất cứ lúc nào vì bom đạn khói lửa. Cuộc chiến tranh ấy gây ra bao đau thương, tan tóc, phá vỡ hạnh phúc của bao con người thèm khát một cuộc sống hòa bình. Qua đó là lời tố cáo sâu sắc chiến tranh phi nghĩa, đòi quyền sống, trả lại cuộc sống bình yên cho con người.

Câu 4: Đọc diễn cảm đoạn trích (nếu ngâm được càng tốt). Hãy nhận xét về nhạc điệu của thể thơ song thất lục bát (có so sánh với các thể thơ mà anh (chị) biết).

Bài thơ được viết theo thể thơ song thất lục bát điệu nghê, tài hoa với nhịp điệu 3/4 ở câu thất và nhịp chẵn ở câu bát, các câu dài ngắn khác nhau, kết hợp lại thành các khổ luân phiên kéo dài.

- Từ láy được sử dụng chọn lọc kết hợp với hàng loạt các điệp từ tạo tính nhạc điệu cho câu thơ: eo óc”, “phất phơ”, “đằng đẵng”, “dằng dặc”, “mê mải”, “châu chan”, “thăm thẳm”

- Cách gieo vần mới lạ: “iết” tạo âm hưởng đều đều, trầm lắng.

- Cách phân bố bằng trắc (B-T) có sự chênh lệch rõ ràng, số lượng vần bằng chiếm ưu thế. Ví dụ ở đoạn cuối của đoạn trích:

“Trời(B) thăm (B) thẳm (T) xa (B) vời (B) khôn (B) thấu (T)

Nỗi (T) nhớ (T) chàng (B) đau (B) đáu (T) nào (B) xong (B)

Cảnh (T) buồn (B) người (B) thiết (T) tha (B) lòng (B)

Cành (B) cây (B) sương (B) đượm (T) tiếng (T) trùng (B) mưa (B) phun (B)”

=> Giọng thơ trở nên trầm lắng, buồn man mác, mênh mang, triền miên như tiếng thở dài ngân nga về miền xa xôi.

Bài viết gợi ý: