1. Tìm hiểu chung
a. Tác giả
-
An-đéc-xen (1805-1875), sinh ra trong một gia đình nghèo, từ nhỏ đã tự lập kiếm sống, lưu lạc nhiều nơi.
-
Truyện của ông nhẹ nhàng, toát lên lòng yêu thương con người, đượm màu sắc hư ảo và thơ mộng, thể hiện niềm tin vào sự thắng lợi cuối cùng của cái tốt đẹp trên thế gian.
-
Ông là nhà văn vĩ đại của ĐM thế kỷ XIX, là danh nhân văn hoá thế giới.
-
Bạn đọc khắp năm châu quen thuộc với nhiều truyện của ông như “Cô bé bán diêm”, “Bầy chim thiên nga”, “Nàng tiên cá”, “Bộ quần áo mới của hoàng đế”, “Nàng công chúa và hạt đậu”...
b. Tác phẩm
-
Đoạn trích: Cô bé bán Diêm trích trong “Cô bé bán diêm” – một trong những truyện ngắn hay nổi tiếng, giàu chất nhân văn.
-
Nội dung: Bằng nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, đan xen giữa hiện thực và mộng tưởng, với các tình tiết diễn biến hợp lí, tác phẩm “Cô bé bán diêm” của An- đéc-xen truyền cho chúng ta lòng thương cảm sâu sắc đối với một em bé bất hạnh.
2. Đọc - hiểu văn bản
Câu 1: Hãy xác định ba phần của văn bản này nếu lấy việc em bé quẹt những que diêm làm phần trọng tâm. Căn cứ vào đâu để có thể chia phần thứ hai (phần trọng tâm) thành những đoạn nhỏ hơn?
Nếu lấy việc em bé quẹt những que diêm làm phần trọng tâm, có thể chia văn bản thành 3 phần:
Phần đầu. Từ đầu đến “những lời mắng nhiếc chửi rủa”: Hoàn cảnh đáng thương của cô bé bán diêm.
Phần thứ hai. Tiếp đến “đã về chầu Thượng đế”: Các lần quẹt diêm và những mộng tưởng của em bé.
Phần 3. Đoạn còn lại: Cái chết đầy thương tâm của cô bé bán diêm.
Căn cứ vào số lần quẹt diêm, có thể chia phần thứ 2 cũng là phần trọng tâm của tác phẩm thành những đoạn nhỏ hơn. Những đoạn nhỏ hơn đó là những lần em bé quẹt một que diêm và khi em quẹt tất cả những que còn lại trong bao.
Câu 2: Qua phần đầu, chúng ta được biết gì về gia cảnh của cô bé bán diêm và thời gian, không gian xảy ra câu chuyện? Liệt kê những hình ảnh tương phản (đối lập, đặt gần nhau, làm nổi bật lẫn nhau) được nhà văn sử dụng trong phần này nhằm khắc họa nỗi khổ cực của cô bé.
_ Gia đình cuộc sống: Mẹ cô bé đâ chết, cô sống với bố, bà nội cô cũng đã qua đời. Nhà bố con cô nghèo, sống "chui rúc trong một xó tối tăm”, “tròn gác sát mái nhà”. Bố cô rất khó tính, cô "luôn luồn nghe những lời máng nhiếc chửi rủa và phải đi bán diêm để kiếm sống qua ngày.
- Bối cảnh không gian, thời gian: Bối cảnh của truyện ỉồ đêm giao thừa ngoài đường phố lạnh giá ở Đan Mạch. Đan Mạch là một nước nhỏ thuộc khu vực Bắc Âu. Diện tích nước này khoảng một phần tám diện tích nước ta, thủ đô là Cô-pen-ha-ghen. Ớ đây, đêm giao thừa thời tiết rất lạnh, nhiệt độ nhiều lúc xuống tới vài chục độ dưới không độ, tuyết rơi dày đặc. Thế mà cô bé bán diêm ở đây lại "ngồi nép trong một góc tường, giữa hai ngôi nhà..." mong cho đỡ lạnh, nhưng ăn thua gì!
- Những hình ảnh tương phản: An-đéc-xen trong tác phẩm này đã sử dụng nhiều hình ảnh tương phản: "Trời đông giá rét tuyết rơi” khác cô bé “đầu trần, chân đi đất”: Ngoài đường phố lạnh buốt và tối đen khác cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn. Cô bé bụng đói vì cả ngày chưa ăn uống gì khác *trong phố sực nức mủi ngỗng quay”. Những hình ảnh tương phản này được chọn lọc, nhằm nêu bật tình cảnh tội nghiệp, đổng thương của cô bé vừa rét, vừa đói, vừa khổ.
Ngoài ra, còn có sự tương phản giữa hình ảnh "cái xó tối tăm” mà cô phải sông chui rúc với bố hiện nay với “ngôi nhà xinh xắn có dây thường xuân bao quanh” năm xưa khi bà nội cô còn sông. Hình ảnh tương phản này vừa nêu bật nỗi khổ vật chất, vừa cho thấy sự mất mát tinh thần của cô bé bây giờ, vì chỉ có bà nội cô là người thương cô.
Câu 3: Chứng minh rằng những mộng tưởng của cô bé qua các lần quẹt diêm (lò sưởi, bàn ăn, cây thông Nô – en, người bà, hai bà cháu bay đi) diễn ra theo thứ tự hợp lí. Trong số các mộng tưởng ấy, điều gì gắn với thực tế, điều nào thuần túy chỉ là mộng tưởng?
- Bằng sự đan xen giữa hiện thực và mộng tưởng qua các lần quẹt diêm của cô bé, ta thấy nghệ thuật kế chuyện của An-đéc-xen thật hấp dẫn. Khi que diêm cháy lên là lúc mộng tưởng hiện ra trong đầu óc cô bé từ lò sưới bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng đến bàn ăn đã dọn khăn trải bàn trắng tinh, bát đĩa bằng sứ quý giá, có cả ngỗng quay… rồi thì cây thông Nô-en và hàng ngàn ngọn nến sáng rực, bà nội em mỉm cười với em, hai bà cháu vụt bay lên trời:
Nhưng khi que diêm tắt là lúc cô bé trở lại với thực tại với thực tế chỉ còn là những bức tường dày lạnh lẽo… Tất cả các ngọn nến bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời.
- Các mộng tướng của cô bé với các tình tiết được nhà văn lần lượt theo thứ tự hợp lí. Do trời rất rét, cô bé lại vừa que điêm nên cô mộng tưởng ngay đến lò sưởi, tiếp đó vì cô đói nên mộng tưởng đến chiếc bàn ăn với một con ngỗng quay, đặc biệt là con ngỗng quay đã nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn phuốc-sét tiến về phía cô.
Lúc bấy giờ, sau các bức tường kia, nhà nhà đều đang đón giao thừa nên liền đó cây thông Nô-en đã hiện lên. Đến đây, cô bé nhớ đến mình đã có một thời được hưởng hạnh phúc, cũng được đón giao thừa như thế khi bà nội em còn sống, thế là hình ảnh bà nội hiện ra.
- Trong các mộng tưởng ấy chỉ có bàn ăn, cây thông Nô-en là gắn liền với thực tế. Còn lại, từ con ngỗng quay bay ra khỏi đĩa mang cả dao ăn, phuôc-sét, tiến về phía em đến hình ảnh hai bà cháu cô nắm tay nhau bay vụt lên trời đều thuần túy chỉ là mộng tưởng.
Câu 4: Phát biểu những cảm nghĩ của em về truyện Cô bé bán diêm nói chung và về đoạn kết của truyện nói riêng?
Những cảm nghĩ của em về truyện Cô bé bán diêm: Đây là một tác phẩm mang tính nhân đạo sâu sắc về những mảnh đời trẻ thơ bất hạnh.
Đoạn kết của truyện:
-
Đây là một bi kịch đau thương, cái chết của một cô bé trong đêm đông giao thừa giá lạnh, trong đói khát, rét mướt => cái chết đầy thương tâm.
-
“đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười”, đây là cái chết của sự giải thoát, em cùng bà về chầu Thượng đế, em đi vào cõi bất tử cùng người bà hiền hậu của em.
-
Thể hiện sự vô cảm của mọi người xung quanh khi nhìn thấy thi thể em bé vào sáng hôm sau và niềm cảm thông sâu sắc của tác giả với những em nhỏ bất hạnh trong một xã hội thiếu tình thương.