BỘ ĐỀ THI THPTQG CHUẨN CẤU TRÚC- ĐỀ 18
Môn: Ngữ Văn

Thời gian làm bài: 120 phút. 

 

I. ĐỌC – HIỂU (3 điểm)

Đọc văn bản sau:
                                                                                             THỬ THÁCH 

        Trong truyện Nhà giả kim, chàng trai đi tìm kho báu gặp và nói chuyện với một nhà luyện kim đan rằng: 

        “Trái tim cháu sợ sẽ phải đau khổ”, cậu nói với nhà luyện kim đan như thế vào một đêm hai người nhìn lên bầu trời không trăng.    
        “Hãy bảo nó rằng sợ phải đau khổ còn đau đớn hơn chính sự đau khổ, và chưa từng có trái tim nàọ phải chịu đau khổ khi tìm cách thực hiện giấc mơ, vì mỗi phút giây tìm kiếm là một khoảnh khắc gặp gỡ Thượng Đế và Vĩnh hằng. [...] Khi ta thành tâm đi tìm kho tàng thì mỗi một ngày đều chan hòa niềm vui, vì mỗi giờ qua đi đều sẽ đem ta gần lại kho tàng hơn. Khi thành tâm đi tìm kho tàng, ta phát hiện trên đường nhiều điều mà ta sẽ không bao giờ được thấy nếu ta không đủ can đảm thử làm những việc xem ra một kẻ chăn cừu không thể làm nổi”. [...] Điều cậu cần biết nữa là thế này: trước khi cậu đạt được ước mơ thì Tâm linh vũ trụ sẽ thử thách mọi điều cậu học được trên đường đi. Tâm linh vũ trụ làm thế không phải vì ác ý mà vì muốn khi đạt được ước mơ, chúng ta đồng thời cũng nắm vững những bài học đã lĩnh hội khi đi theo ước mơ. Đó chính là thời điểm mà đa số người ta bỏ cuộc, nói theo ngôn ngữ sa mạc là “chết khát đúng vào lúc cây chà là xuất hiện ở chân trời”. Mọi cuộc tìm tòi đều khởi đầu như câu “thánh nhân đãi kẻ khù khờ” và kết thúc với sự thử thách gay go kẻ chiến thắng.”
                                                                           (Trích Nhà giả kim, Paulo Coelho, NXB Văn học, 2013, tr.174)

Trả lời các câu hỏi sau:
Câu 1
. Xác định thao tác lập luận nhà luyện kim đã sử dụng trong lời đáp lại cậu bé?
Câu 2. “Kho tàng” trong đoạn trích trên có thể được hiểu là gì?
Câu 3. Theo nhà luyện kim đan, vì sao “chưa từng có trái tim nào phải chịu đau khổ khi tìm cách thực hiện giấc mơ”? Anh/ Chị có tán thành quan điểm đó không?
Câu 4. Nếu được lựa chọn, anh/ chị sẽ chọn con đường đi tìm kho báu đầy thử thách hay cuộc sống bình yên? (trình bày trong 5-7 câu).
II. LÀM VĂN (7 điểm)
Câu 1 (2 điểm)

          Bằng đoạn văn 200 chữ, hãy bàn về vai trò của chông gai trên đường đời.
Câu 2 (5 điểm)
          Bàn về hình tượng sông Hương trong bài kí Ai đã đặt  tên cho dòng sông của  Hoàng Phủ Ngọc Tường có ý kiến cho rằng “Sông Hương mang một vẻ đẹp đầy nữ tính và rất mực đa tình”. Hãy bình luận ý kiến trên qua việc phân tích đoạn trích dưới đây:
...Phải nhiều thế kỷ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, Sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó. Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam - bắc qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển sang hướng tây - bắc vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông - bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột khởi như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” như người Huế thường miêu tả. Giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch, là niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ tỏa lan khắp cả một vùng thượng lưu “bốn bề núi phủ mây phong - mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên”. Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương, như triết lý, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng bát ngát tiếng gà... 

 

 

HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI

Câu 1

  Phong cách ngôn ngữ chính là chính luận.

Câu 2

   “Kho tàng” có thể được hiểu là kho báu thực sự trong chuyến đi tìm kiếm của nhân vật. Theo nghĩa ẩn dụ, kho tàng là những thành công lớn trong cuộc đời mỗi người mà họ khát khao đạt được.

Câu 3

  Theo nhà luyện kim đan, “chưa từng có trái tim nào phải chịu đau khổ khi tìm cách thực hiện giấc mơ’’ bởi lẽ: khi ta cố gắng thực hiện giấc mơ, mỗi một ngày đều chan hòa niềm vui, vì mỗi giờ qua đi đều sẽ đem ta gần lại kho tàng hơn; ta phát hiện trên đường nhiều điều mà ta sẽ không bao giờ được thấy nếu ta không đủ can đảm.

=> Khi ta sống và nỗ lực theo những hoài bão, khát vọng thì cuộc sống sẽ vô cùng ý nghĩa, tràn đầy hạnh phúc cho dù có chông gai.

=> Đó là một quan điểm đúng đắn.

Câu 4

- Về hình thức: 5-7 dòng, diễn đạt mạch lạc.

- Về nội dung:

+ Nêu quan điểm cá nhân

+ Bàn luận làm sáng rõ quan điểm (vỉ dụ: chọn cuộc sống nhiều thử thách vì mỗi người chỉ sống một lần, sống sao cho không hoài phí, nên cần nỗ lực hết mình,...; chọn cuộc sống bình yên vẫn có thể có những niềm vui giản dị nhưng vô cùng đáng quý, bởi nhiều người vì quá ham mê thành công lớn mà bỏ qua những hạnh phúc đơn sơ, những giá trị đáng quý của cuộc sống...).

II. LÀM VĂN (7 điểm)

Câu 1 (2 điểm)

Yêu cầu chung về hình thức và kết cấu đoạn văn:

•Xác định đúng vấn đề nghị luận.

•Nêu được quan điểm cá nhân và bàn luận một cách thuyết phục, hợp lí.

•Đảm bảo bố cục: mở - thân - kết, độ dài 200 chữ.

•Lời văn mạch lạc, lôi cuốn, đàm bảo chính tả và quy tắc ngữ pháp.

Yêu cầu nội dung:

Có nhiều hướng trình bày ý kiến, sau đây chỉ là một gợi ý:

Câu

Nội dung

Đoạn văn

Nêu vấn đề

+ Vấn đề

 

 

 

+ Vai trò của chông gai trên đường đời.

+ Chông gai chỉ những thử thách, khó khăn ta gặp phải.

=> Ta không hề mong muốn những chông gai. Nhưng chính những chông gai lại  có ý nghĩa lớn đối với cuộc đời mỗi người.

Luận bàn

Vai   trò,   ý nghĩa của chông gai.

+ Những khó khăn, chông gai thử thách bản lĩnh của chúng ta, như lửa thử vàng.

+ Vượt qua được chông gai sẽ cho ta những thành công vẻ Những khó khăn, chông gai thử thách bản lĩnh của chúng ta, như lửa thử vàng.
+ Vượt qua được chông gai sẽ cho ta những thành công vẻ vang, sự vững vàng, mạnh mẽ.
+ Thất bại trước chông gai cho ta kinh nghiệm quý báu.
+ Lùi bước trước  chông gai khiến  ta không có được bất  kì thành tựu ý nghĩa nào.
+ Phân biệt chông gai với những hố sâu khi ta lạc lối. Khi không gặp  chông gai, cuộc sống  càng may mắn, hạnh phúc nhưng không có cơ hội trải nghiệm qua khó khăn. Sẽ không sao nếu ta vẫn nỗ lực.
+ Vững vàng trước gian khó, coi đó là cuộc thi bắt buộc để nhận tấm bằng trưởng thành.
+ Luôn cố gắng, không từ bỏ.
+ Nhìn nhận lại bước đi của mình có thực sự đúng đắn khi gặp chông gai nỗ lực hết mình để khẳng định bản lĩnh tuổi trẻ.

Câu 2 (5 điểm)

Yêu cầu chung: 0,5 điểm

    Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kỹ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục rõ ràng, đầy đủ; văn viết có cảm xúc, thể hiện khả năng phân tích, cảm thụ. Diễn đạt trôi chảy, đảm bảo tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.

Yêu cầu nội dung: 4,5 điểm

ĐỌC HIỂU YÊU CẦU ĐỀ

- Đối tượng chính, trọng tâm kiến thức: Ai đã đặt tên cho dòng sông

- Dạng bài: bàn luận một ý kiến, phân tích

- Yêu cầu: Phân tích những đặc sắc trong nội dung, nghệ thuật của đoạn trích, từ đó bàn luận đi đến nhận định về ý kiến.

TIẾN TRÌNH LÀM BÀI

KIẾN THỨC

HỆ THỐNG Ý

PHÂN TÍCH CHI TIẾT

CHUNG

 

 

 

 

 

 

 

 

0,5 điểm

Khái quát vài nét về tác giả - tác phẩm

        Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trí thức yêu nước gắn bó sâu sắc với quê hương. Là nhà văn có sở trường về bút kí, tuỳ bút. Tác phẩm của ông luôn có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất  trí tuệ  và trữ tình; giữa nghị luận sắc  bén với  trình bày giàu chất thơ  và sự vận dụng tổng hợp tri thức triết học, địa lí, lịch sử, văn hoá... Lối hành văn trong bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường hướng nội, súc tích, mê đắm và rất mực tài hoa.

        Bút kí Ai đã đặt  tên cho dòng sông? được  Hoàng Phủ Ngọc Tường viết năm 1981 bằng tình yêu, sự gắn bó hơn nửa cuộc đời với mảnh đất, cảnh vật, con người xứ Huế. Tác phẩm được in trong tập bút kí cùng tên năm 1986. Ban đầu, tác giả đặt tên là: Hương ơi, e phải mày chăng?

        Vị trí trích đoạn thuộc phần đầu của thiên tùy bút, khi nhà văn nhìn sông Hương trong vẻ đẹp tự nhiên, trong thủy trình của dòng sông từ nguồn ra biển. Đoạn trích là dòng chảy dòng sông khi ở ngoại  vi thành phố.

 

TRỌNG

TÂM

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

4,0 điểm

Giải thích

       Sông Hương - người con gái hết mực nữ tính: Trong cảm quan của Hoàng Phủ Ngọc Tường,  sông Hương hiện  lên đậm  thiên tính nữ. Ngay từ phần mở đầu, nhà văn đã nhân hóa sông Hương với hình ảnh cô gái Digan đầy phóng khoáng và man dại, là hình ảnh người con gái của rừng  già với sức mạnh bản năng, một  tâm hồn tự  do trong sáng. Và đến đoạn trích này, sông Hương tiếp tục được nhìn nhận như một người gái đẹp say ngủ giữa cánh đồng Châu Hóa.               Như vậy, có thể nói, sông Hương đã hiện lên qua áng văn Hoàng Phủ là người con gái hết sức vẹn toàn.- Sông Hương  - người  con gái đa  tình: Có thể hiểu ở đây đa  tình nghĩa là giàu tình cảm. Hành trình sông Hương từ thượng nguồn ra biển là hành trình của một người con gái vượt qua bao gian nan để đến với người  tình xứ Huế,  do vậy,  mà qua thiên tùy bút, sông Hương cũng hiện lên hết mực đa tình.

Vẻ đẹp nữ tính

      Vẻ đẹp của dòng sông Hương trong đoạn ưích, ngay từ câu mở đầu đoạn, đã hiện lên đậm thiên tính nữ: "Phải nhiều thế kỷ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”. Hình ảnh nhân hóa sông Hương như một người  gái đẹp  say ngủ đã  nói sự dịu  dàng, vẻ  kín đáo, sự quyến rũ của nó. Hình ảnh người gái đẹp với giấc ngủ mơ màng qua hàng trăm năm ấy khiến ta liên tưởng tới hình ảnh nàng công chúa cùng giấc ngủ trăm năm trong câu chuyện cổ tích.

      Khi người tình xứ Huế đến đánh thức, sông Hương đã choàng tỉnh và bắt đầu cuộc hành trình của mình. Trong cuộc hành trình đó, sông Hương đã bộc lộ và tự trau dồi thêm cho vẻ đẹp, cho phẩm chất của mình, khiến cho vẻ đẹp của nó ngày càng toàn vẹn hơn:

+   Vẻ đẹp của sông Hương là vẻ đẹp được tô điểm qua thử thách. Khi chảy qua lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản, giống như là một bể lọc lớn, để nước sông Hương trở nên xanh thẳm, phải chăng giống như người con gái, sông Hương đang tự làm mới mình.

+   Khi trôi qua những dãy đồi sừng sững, sông Hương phải uốn dòng chảy, và qua hướng chảy lắt  léo đó,  sông Hương đã  phô ra được những đường cong quyến rũ của nó. Tại nơi đây, sông Hương mềm đi như một dải lụa.

+   Đặc biệt hơn, khi uốn mình qua hai dãy đồi sừng sững như thành quách, những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc  trên nền trời  tây nam thành phố: “sớm  xanh, trưa  vàng, chiều tím”, hay nói cách khác, những ngọn đồi ấy đã tạo nên chiếc áo màu sắc để khoác lên mình người con gái Hương giang. Khiến cô gái ấy thêm phần lộng lẫy và xinh đẹp.

+ Nhưng Hương giang không chỉ có vẻ đẹp của nhan sắc, người con gái còn hiện lên trong vẻ đẹp của trí tuệ, của văn hóa và sự hiểu biết. Khi dòng sông chảy qua những đồi thông u tịch, nơi phong kín giấc ngủ ngàn năm của những vị  vua chúa, dòng sông ấy  mang vẻ đẹp trầm mặc như triết lý, như cổ thi. Sự nghiêm trang, lặng lẽ và khẽ khàng của Hương  giang giống như người  con gái ý tứ, lịch thiệp, không muốn làm kinh động đến giấc ngủ ngàn năm của các vị vua chúa.

 

Sông Hương – người con gái đa tình

     Sông Hương ngoài vẻ đẹp nữ tính, còn hiện lên như một người con gái đa tình. Sự đa tình của Hương giang đã hiện lên qua cuộc hành trình của nó tìm đến với người tình xứ Huế. Ngay từ mở đầu của tùy bút, tác giả đã viết về sự đặc biệt của Hương giang khi nó chỉ thuộc về một thành phố duy nhất. Là người con gái yêu Huế, trọn đời chỉ có người tình Huế.

     Cuộc hành trình của Hương giang từ nguồn đến với kinh thành Huế như sau: "Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam - bắc qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển sang hướng tây - bắc vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông – bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”. Có thể nói đó là cuộc hành trình dài, đầy những gian truân. Cuộc hành trình của sông Hương khiến ta liên tưởng tới câu ca dao: “ Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo/ Ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cùng qua ”.

      Hành trình sông Hương từ khi bắt đầu đã được nhà văn miêu tả: ‘‘Nhưng  ngay từ đầu vừa  ra khỏi  vùng núi, Sông Hương đã chuyển dòng một  cách liên tục,  vòng những  khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó”. Như vậy, hướng chảy  dòng sông, sự chuyển  dòng của  dòng sông, qua cảm quan nhà văn đó là một cuộc kiếm tìm rất rõ ràng, có ý thức và có mục đích. Hướng chảy ấy giống như bước chân của người con gái lân đầu, bỡ ngỡ, đến với tình yêu.

Bàn luận, đánh giá

      Miêu tả sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường bộc lộ một vốn hiểu biết phong phú, một trí tưởng tượng bay bổng. Bằng giọng văn say đắm lòng người, nhà văn đã thổi hồn vào dòng chảy, thổi phẩm chất vào Hương giang bản tính của người con gái xứ Huế e lệ, dịu dàng, kín đáo nhưng cũng thật mãnh liệt.

      Với hơn nửa đời gắn bó cùng cố đô, nhà văn đã có một tình cảm sâu đậm với xứ sở này, và cũng như dòng sông, tình yêu của Hoàng Phủ Ngọc Tường với Huế cũng thật đậm đà, sâu nặng.

Bài viết gợi ý: