ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019
                                                  CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 08

                                                                           Môn thi: NGỮ VĂN
                                                  Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề
Họ, tên thí sinh:.......................................................................
Số báo danh:............................................................................

I.    ĐỌC – HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
           Một tư tưởng chuẩn bị cho một tương lai vững bền là phải bắt đầu làm điều gì đó trước, để đón nhận nó và song vì chân lí đó. Trồng cây xanh là một lẽ sống không chỉ một công việc mà là một triết lí nảy sinh từ sự phát triển cho sự nghiệp và dân tộc. Bác thể hiện tư tưởng của mình một cách giản dị khi phát động “Tết trồng cây” rằng, chúng ta sẽ có những cây vừa ăn quả, vừa có hoa, vừa có cả cây làm cột nhà. Thêm nữa, Người còn tô đậm cho một tương lai của môi trường sống; khi ấy phong cảnh nước ta sẽ ngày càng tươi đẹp hơn, khí hậu điều hòa hơn, cây gỗ đầy đủ hơn. Điều đó sẽ góp phần quan trọng vào việc cải thiện đời sống của dân tộc ta. [...]
           Tư tưởng của Bác Hồ ngày càng sâu sắc và là ngọn đuốc chỉ đường cho một tương lai của dân tộc ta trong nhiều lĩnh vực kinh tế khác. Nếu điểm lại những vụ chảy rừng, hay những trận lũ lụt liên tiếp xảy ra trên vùng cao, mới thấy triết lí của Bác trong “Tết trồng cây” thấu tình đạt lí làm sao. Sự hối hận đã trở nên muộn màng khi con người triệt phá rừng cây. Bọn lâm tặc là những kẻ tội đồ cần phải trừng phạt. Nhưng  con người nếu không có trách nhiệm với mỗi cây xanh, mỗi cánh rừng cũng sẽ trở nên đồng phạm phá hoại màu xanh và tàn phá sự sống của chỉnh mình. Mỗi cây xanh bị đốn chặt là một tội ác. Hạ sát thiên nhiên bao giờ cũng để lại hậu quả lâu dài. Và máu người lại đổ xuống. Mạng người lại bị vùi lấp trong những cơn lũ tràn về bất ngờ hay những trận lở núi ập xuống đem lại tai họa khó lường.
                    (Chung Tử, 55 mùa xuân và “Tết trồng cây”, Số Xuân Ất Mùi tạp chí Tri thức và Thời đại )
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản?
Câu 2: Đặt câu “Một tư tưởng chuẩn bị cho một tương lai vững bền là phải bắt đầu làm điều gì đó trước, để đón nhận nó và sống vì chân lí đó” trong văn bản có hàm ý gì?
Câu 3: Chỉ ra mối quan hệ giữa hai câu văn sau: Bọn lâm tặc là những kẻ tội đồ cần phải trừng phạt. Nhưng con người nếu không có trách nhiệm với mỗi cây xanh, mỗi cánh rừng cũng sẽ trở nên đồng phạm phá hoại màu xanh và tàn phá sự sống của chính mình.
Câu 4: Theo anh chị, việc lạm dụng đồ gỗ trong sinh hoạt có bị coi là tòng phạm trong việc chặt phá rừng hay không? Vì sao?
II.    LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)

Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến được nêu ra ở phần đọc hiểu: Nhưng con người nếu không cỏ trách nhiệm với mỗi cây xanh, mỗi cảnh rừng cũng sẽ trở nên đồng phạm phá hoại màu xanh và tàn phá sự sống của chính mình.
Câu 2 (5,0 điểm)
          Có ý kiến cho rằng: Ở Tnú không có vấn đề nhận đường, tìm đường như nhân vật A Phủ. Câu chuyện về Tnú được mở ra từ chính chỗ A Phủ dần khép lại.

           Anh/chị hãy so sánh hai nhân vật A Phủ (Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài) và nhân vật Tnú (Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành) để thấy được những phẩm chất mới mẻ ở Tnú.

                                                                             -------------------- HẾT --------------------
 
                                                                                HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT
I.    ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm)
Câu 1 (0,5 điểm):

Phương thức lập luận chính: phương thức nghị luận
Câu 2 (0,5 điểm):
Câu nói: Một tư tưởng chuẩn bị cho một tương lai vững bền là phải bắt đầu làm điều gì đó trước, để đón nhận nó và sống vì chân lí đó.
Có nghĩa:
–    Để phát triển cuộc sống, tương lai của đất nước bao giờ cũng cần chuẩn bị vững chắc những tư tưởng lớn, có giá trị chiến lược, lâu dài: Tết trồng cây không chỉ là một công việc mà nó trở thành một triết lý sống nảy sinh từ sự phát triển cho sự nghiệp và dân tộc;
–    Con người cần coi việc trồng, chăm sóc cây xanh trở thành một hoạt động thường niên, một phương châm sống để bảo vệ môi trường và bảo yệ chính mình.
Câu 3 (1,0 điểm):
Mối quan hệ giữa hai câu văn sau: Bọn lâm tặc là những kẻ tội đồ cần phải trừng phạt. Nhưng con người nếu không có trách nhiệm với mỗi cây xanh, mỗi cảnh rừng cũng sẽ trở nên đồng phạm phá hoại màu xanh và tàn phá sự sống của chính mình
–    Hai câu văn sử dụng từ “nhưng” để kết nối quan hệ.
–    Thông thường, từ “nhưng” biểu thị quan hệ tương phản, tuy nhiên trong trường hợp này “nhưng” chỉ biểu thị ý bổ sung, bổ trợ ý của câu thứ nhất (Bọn lâm tặc là những kẻ tội đồ cần phải trừng phạt) cho câu thứ hai (Nhưng con người nếu không có trách nhiệm với mỗi cây xanh, mỗi cảnh rừng cũng sẽ trở nên đồng phạm phá hoại màu xanh và tàn phá sự sống của chỉnh mình).
Câu 4 (1,0 điểm):
-    Đồ gỗ trong sinh hoạt được coi là một nhu cầu cao trong giai đoạn hiện nay bởi tính hữu dụng của nó;
-    Việc khai thác gỗ đúng quy định, sản xuất đồ gỗ đúng quy trình, đáp ứng nhu cầu sử dụng một cách tối thiểu thì không được coi là tòng phạm trong việc tàn phá môi trường;
-    Việc lạm dụng đồ gồ trong sinh hoạt có bị coi là tòng phạm trong việc chặt phá rừng. Vì việc sử dụng quá mức so với nhu cầu để phô trương, để khoe mẽ là động lực xấu tiếp tay cho tội phạm vì siêu lợi nhuận đã bất chấp quy định chặt phá rừng bừa bãi, khai thác quá mức cho phép gây lãng phí, thất thoát nguồn tài nguyên thiên nhiên như vậy được coi là tòng phạm, cần bị lên án, phê phán.
II.    LÀM VĂN (7,0 điểm):
Câu 1 (2,0 điểm):
1.    Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn (0,25 điểm)

Có thể trình bày đoạn văn theo nhiều cách: diễn dịch, quy nạp, móc xích, song hành...
2.    Xác định đúng vấn đề cần nghị luận(0,25 điểm):
Nhận thức tầm quan trọng của việc trồng cây xanh để gìn giữ môi trường, bảo vệ cuộc sống của con người.
3.    Triển khai vấn đề nghị luận (1,0 điểm):
 Có thể lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng cần
nêu lý lẽ để khẳng định tính đúng đắn và cần thiết của vấn đề nghị luận. Có thể theo hướng sau:
- Vai trò của cây xanh đối với cuộc sống:
+ Tạo nên cảm giác nhẹ nhàng và thư thái, như tìm được chốn yên bình sau khoảng thời gian ồn ào vội vã
của cuộc sống.
+ Việc kết hợp hài hòa cây xanh và các công trình kiến trúc góp phần tôn tạo thêm vẻ đẹp, phát huy tác
dụng của các công trình xung quanh như nhà ở cao tầng, biệt thự, bồn hoa, tượng đài...
- Hậu quả của việc chặt phá cây xanh, phá hủy môi trường sống:
+ Cây xanh được xem là một máy điều hòa không khí, máy hút bụi.. .thiếu cây xanh sẽ làm mất cân bằng hệ sinh thái;
+ Không có cây xanh thì các vấn đề thiên tai như lũ lụt, hạn hán, sạt lở đất, sẽ xảy ra thường xuyên, gây
thiệt hại rất lớn về người và của;
+ Chặt phá rừng thiếu quy hoạch dẫn đến vấn nạn nhiều loài động vật hoang dã cũng đang trên đà tuyệt chủng...
→ Không có cây xanh thì môi trường sống của chúng ta sẽ dần bị tàn phá, hủy hoại.
- Ý thức, trách nhiệm của con người trong việc trông cây xanh, bảo vệ môi trường sống
+ Bảo vệ môi trường xanh, sạch, đẹp không phải là một nhiệm vụ hay một “công trình” mà đó là ý thức trách nhiệm của từng người, từng cá nhân. Mỗi chúng ta phải biết tự giữ gìn nguồn sống của chính mình. Muốn vậy, chúng ta phải ý thức được trách nhiệm bảo vệ môi trường, cũng chính là bảo vệ sự sống của chúng ta.
+ Thanh niên là tầng lớp tiên phong, đi đầu trong mọi phong trào và hoạt động. Thanh niên hãy cùng nhau bắt tay vào hành động từ những việc làm nhỏ nhất: trồng cây, chăm sóc cây xanh; kêu gọi mọi người chung tay giữ gìn vệ sinh chung, cùng nhau bảo vệ môi trường, bảo vệ sự sống của chúng ta.
+ Môi trường là mái nhà chung của toàn nhân loại, bảo vệ môi trường không phải là một lời nói suông  mà đang đòi hỏi cấp thiết và nên phải hành động ngay, bảo vệ môi trường là bảo vệ cuộc sống của chúng ta. Bởi vậy, tất cả chúng ta hãy chung tay lũy sức bảo vệ môi trường và tránh gây ô nhiễm. Vì tương lai của một trái đất xanh, sạch, đẹp và vì cuộc sống của chính chúng ta và của các thế hệ sau.
+ Vấn đề thiết kế cây xanh cần được tiến hành sớm và có kế hoạch rõ ràng ngay từ đầu. Cần nghiên cứu, bố trí hợp lí, khoa học, tránh chắp vá, sửa đổi quá nhiều sau này cũng như tránh gây trở ngại cho các công trình khác. Những phần diện tích nếu có kế hoạch cụ thể trước sẽ rất thuận lợi, chủ động cho việc thiết kế hệ thống cây xanh ở mỗi khu vực.
Thông điệp:
“Hãy đối xử tốt với thiên nhiên, sống thân thiện với môi trường, ta sẽ tận hưởng được những giây phút thư giãn, thoải mải trong bầu không khí trong lành, được tận hưởng những cảnh đẹp từ thiên nhiên. Bảo vệ môi trường là bảo vệ sự sống của chỉnh mình”
“Mỗi cây xanh được trồng sẽ là một cam kết về hành động cụ thể nhằm chống lại biến đổi khỉ hậu, là niềm hi vọng hướng tới tương lai bền vững và tốt đẹp hơn”
4.    Chính tả, dùng từ, đặt câu (0,25 điểm):
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp, ngữ nghĩa Tiếng Việt
5.    Sáng tạo (0,25 điểm):
Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận
Câu 2 (5,0 điểm)
1.Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận (0,25 điểm):

Trình bày đầy đủ các phần Mở bài, Thân bài, Kết bài. Phần Mở bài biết dẫn dắt hợp lí và nêu được vấn đề; phần Thân bài biết tổ chức thành nhiều đoạn văn liên kết chặt chẽ với nhau cùng làm sáng tỏ vấn đề; phần Kết bài khái quát được vấn đề và thể hiện được nhận thức của cá nhân.
2.    Xác định đúng vấn đề cần nghị luận (0,5 điểm):
So sánh hai nhân vật A Phủ (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài) và nhân vật Tnú (Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành) để thấy được những phẩm chất mới mẻ ở Tnú.
3.    Triển khai vấn đề nghị luận:
Cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp dẫn chứng và lí lẽ.
a.    Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm (0,5 điểm):
- Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn được rút ra từ tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài viết vào năm 1953 ngay sau chuyến thâm nhập thực tế của tác giả. Truyện đã được tặng giải Nhất của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 - 1955. Đấy là truyện ngắn đặc sắc nhất của Tô Hoài nói riêng và của văn xuôi chống Pháp nói chung, tác phẩm là một bức tranh chân thực về cuộc sống và thân phận khổ đau của những người nông dân nghèo miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến, đồng thời là bài ca về phẩm chất, sức sống, khát vọng tự do của con người lao động miền núi, là hình ảnh con đường giải phóng và sự đổi đời của họ. Tiêu biểu cho những con người ấy là A Phủ.
-    Truyện ngắn Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành: Mỗi nhà văn thường có một vùng đất riêng, với Nguyễn Trung Thành đó là Tây Nguyên. Ông đã có rất nhiều những tác phẩm viết về mảng đề tài này, đặc biệt là hình ảnh của những con người bất khuất, kiên cường nơi núi rừng Tây Nguyên. Một trong những tác phẩm nổi bật nhất trong sáng tác của Nguyễn Trung Thành là truyện ngắn Rừng xà nu. Tác phẩm là câu chuyện về dân làng Xô Man trong kháng chiến chống Mĩ. Trong số những con người hiên ngang bất khuất của làng Xô Man nổi bật lên là hình ảnh Tnú. Câu chuyện về cuộc đời anh đã được tái hiện cụ thể qua lời kể của già làng bên bếp lửa nhà ưng.
b.    Giới thiệu vấn đề nghị luận:
 -    Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài được viết trong thời kì chống Pháp và Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành được viết trong thời kì chống Mĩ, nhưng cả hai tác phẩm đều đề cập đến số phận người nông dân miền núi bị áp bức dưới ách thống trị của bọn thực dân, đế quốc, tiêu biểu là nhân vật A Phủ và Tnú.
-    Có ý kiến cho rằng: Ở Tnú không có vấn đề tìm đường, nhận đường như nhân vật A Phủ. Câu chuyện về Tnú được mở ra từ chính chỗ A Phủ dần khép lại. Điều đó có nghĩa Tnú là thế hệ nối tiếp, đi sau sẽ có những bước phát triển và phẩm chất mới mẻ hơn so với thế hệ đàn anh – A Phủ.
c.    Triển khai vấn đề nghị luận: Có thể cảm nhận theo nhiều cách nhưng về cơ bản, cần đáp ứng những nội dung sau.
-    Giải thích vấn đề nghị luận: vấn đề tìm đường, nhận đường:
+ Tìm đường, nhận đường là vấn đề nhận thức về lý tưởng – mục đích cao cả nhất của cuộc sống. Trong hai tác phẩm, vấn đề tìm đường, nhận đường là tìm thấy con đường cách mạng chân chính và coi đó là lẽ sống của cuộc đời, nguyện phấn đấu hy sinh vì lý tưởng đó.
++ Nhân vật A Phủ của Tô Hoài được coi là nhân vật đang trên con đường đi tìm lý tưởng và nhận thức lý tưởng.
++ Nhân vật Tnú đã có lý tưởng ngay từ khi anh còn nhỏ, anh đã phấn đấu, hy sinh vì lý tưởng đó.
-    Điểm giống nhau của hai nhân vật:
+ Đều sinh ra từ những vùng cao xa xôi, hẻo lánh.
+ Đều mồ côi, lớn lên đều là những chàng trai khỏe mạnh, cường tráng. A Phủ được ví như con trâu tốt
trong làng, Tnú được ví như cây xà nu cường tráng bất chấp đạn bom, vươn thẳng lên đón ánh sáng mặt trời.
+ Cả Tnú và A Phủ đều sớm có phẩm chất dũng mãnh, căm thù cái ác, sự bất công và đi theo cách mạng. Điểm khác nhau của hai nhân vật:
+ Nhân vật A Phủ:
++ Lai lịch, số phận: tác giả cho A Phủ xuất hiện khá đột ngột trong một hoàn cảnh là cuộc đánh nhau với A Sử, bị bắt bị đánh đập tàn nhẫn ở nhà thống lý Pá Tra rồi mới kể về lai lịch của nhân vật. Đó là một người nghèo khổ đã mất hết cả cha mẹ và anh em trong một trận dịch đậu mùa khủng khiếp, đã phải sống kiếp bơ vơ khi còn rất nhỏ và người làng đói bụng đã bắt A Phủ đưa xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cảnh đồng. Không cam chịu cuộc sống khốn khổ, mới mười tuổi đầu, A Phủ đã tự khẳng định tính cách gan góc, một mình kiếm sống, học hỏi đủ thứ nghề: biết đúc lưỡi cày, cày giỏi và đi săn bò tót rất táo bạo. Khi lớn lên, A Phủ chẳng những hiền lành, lao động giỏi mà còn có sức khỏe hơn người: công việc làm, hay đi săn, cái gì cũng làm phăng phăng.
++ Vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt, A Phủ vẫn sống một đời sống tâm hồn phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời, yêu chính nghĩa, tự tin của tuổi trẻ: đang tuổi chơi, trong ngày Tết đến, dù chẳng có quần áo mới như trai làng khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng trên cổ, A Phủ cũng cứ cùng trai làng đem sáo, kèn, con quay và của người Dao đi tìm người yêu ở các làng trong rừng. Vì vậy, A Phủ đã trở thành niềm mơ ước của biết bao cô gái Mèo. Họ kháo nhau đứa nào được A Phủ cũng bằng có được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu.
++ Tính cách của A Phủ rất đặc biệt, gan góc, có ý thức phản kháng mỗi khi không chịu nổi điều gì, tiêu biểu là việc đánh lại A Sử con quan. Chính từ sự việc này, anh bị thống lý Pá Tra bắt về đánh đập tàn nhẫn và phải trả giá bằng cả cuộc đời làm nô lệ cho nhà thống lý. Là đứa con của núi rừng tự do mà A Phủ vẫn không sao thoát khỏi kiếp sống nô lệ. Bị đày đọa triền miên ở nhà thống lý Pá Tra khiến anh phải cam chịu kiếp sống bị khinh rẻ, bị ngược đãi và những công việc nặng nhọc, nguy hiểm như cày ruộng, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò bãi, nương rừng nhưng vẫn cá tính gan góc và tinh thần phản kháng mạnh mẽ. Anh bị thống lý trói đứng vào cột vì để hổ bắt mất một con bò. Nhưng với khát vọng sống mãnh liệt, bản chất gan góc, bất khuất sẵn có, anh không van xin, không cầu cứu, cũng không cam chịu chết mà tìm mọi cách tự giải thoát: Đêm đến, A Phủ cúi xuống nhay đứt hai đầu dây, nhích dần dây trói một bên tay và khi được Mị cứu, anh quật sức vùng chạy thoát. Cuộc giải thoát ấy chính là ý thức làm người, là tinh thần phản kháng của A Phủ.
++ Có cá tính mạnh mẽ như vậy nhưng vì sao A Phủ vẫn phải tập tễnh đi giết lợn phục dịch những kẻ vừa hành hạ mình? Vì sao anh vẫn phải nghe lời thống lý tự đi lấy cọc, đóng cọc, lấy dây để hắn trói mình? Vì sao một mình rong ruổi cùng đàn trâu, đàn ngựa ngoài rừng mà không chạy trốn? Đó là vì thói quen cam chịu, cam phận của người nông dân trên các vùng núi cao, khi ánh sáng của Đảng chưa vươn tới. Họ sống như trong đêm tối không biết đường ra, không ai chỉ đường vạch lối. Để đến khi cái chết cận kề, họ mới biết dựa vào nhau để giành giật lấy sự sống.
Tô Hoài rất biện chứng trong hai mặt đối lập của nhân vật và chỉ ra cho người đọc thấy đó là bước tìm đường, nhận đường của A Phủ để sau này sang Phiềng Sa gặp A Châu (con người của Đảng), anh được giác ngộ và sẵn sàng cầm súng trở thành du kích quay về giải phóng quê hương.

+ Nhân vật Tnú:

++ Khác với nhân vật A Phủ, câu chuyện cuộc đời Tnú được mở ra từ chính câu chuyện về A Phủ được khép lại. Tnú mồ côi nhưng được sống trong vòng tay yêu thương đùm bọc của dân làng Xô Man, được gần cán bộ cách mạng là anh Quyết. Cả buôn làng Xô Man đều là những người có lòng trung thành với cách mạng trong những thời điểm khốc liệt nhất, kẻ thù khủng bố gay gắt nhất, cả làng vẫn thay nhau đi nuôi giấu cán bộ, vẫn tin tưởng ở Đảng và cách mạng. Tnú có những điều kiện mà các nhân vật anh hùng miền sơn cước trước đó chưa có, hay chỉ có khi đã trải qua vô vàn đau khổ, gian truân. Vì thế, ở Tnú không còn là nhân vật tìm đường, nhận đường nữa, anh đã có những điều kiện thuận lợi và phẩm chất mới mẻ, vượt xa so với A Phủ.
++ Tính cách của Tnú bộc lộ ngay từ khi còn nhỏ, Tnú là con người gan góc, dũng cảm, mưu trí, táo bạo và đặc biệt trung thành vớ cách mạng. Từ nhỏ, Tnú đã tham gia tiếp tế, nuôi giấu cán bộ là anh Quyết. Học chữ thì Tnú hay quên nhưng đi rừng thì nó rất sáng dạ. Tnú xé rừng mà đi, lựa chỗ thác mạnh mà bơi. Khi bị giặc bắt, Tnú nuốt thư vào bụng, bị tra tấn Tnú nhất định không khai, giặt hỏi cộng sản ở đâu, Tnú chỉ tay vào bụng. Làm liên lạc, Tnú thông minh, nhanh nhẹn và dũng cảm, anh hội tụ đầy đủ phẩm chất của một chú bé liên lạc với quyết tâm lớn lên sẽ thay thế anh Quyết làm cách mạng. Tnú là hình ảnh của thiếu niên Việt Nam anh hùng, là hình ảnh của chú bé Lượm trong bài thơ của Tố Hữu, luôn hoàn thành tốt nghĩa phụ liên lạc, anh dũng. Đó là những đặc điểm cần thiết để tạo nên hình tượng người cách mạng Tnú trưởng thành có tính kỉ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng sau này.
+ Tnú là người yêu thương, gắn bó với buôn làng, là đứa con của làng Xô Man. Khi đi bộ đội về thăm làng một đêm, Tnú xúc động để cho vòi nước của làng mình giội lên khắp người như ngày trước. Lòng anh trong như con suối, anh yêu làng, yêu nước, gan góc, dũng cảm, mưu trí, không sợ hi sinh, trung thành tuyệt đối với cách mạng. Phẩm chất đẹp đẽ này đã được minh chứng qua thời gian và các sự kiện: Tnú cùng Mai đi tiếp tế cho cán bộ, làm giao liên rồi bị bắt, bị tra tấn và tù đày... Khi vượt ngục trở về, Tnú đã thành chàng trai hoàn hảo, rắn chắc, cao lớn, đẹp đẽ như cây xà nu cường tráng nhất khu rừng, như tráng sĩ Đăm Săn, Xinh Nhã thuở xưa, lãnh đạo dân làng kháng chiến.
++ Tnú có một trái tim yêu thương và sục sôi căm thù giặc, anh sống rất nghĩa tình và luôn mang trong mình ba mối thù lớn: thù của bản thân, thù của gia đình, thù của buôn làng. Khi vượt ngục về làng, Tnú mang trong mình sức mạnh của lòng căm thù và ý chí của những năm tháng được rèn luyện trong tù rồi anh có gia đình và hạnh phúc với vợ con. Giặc về làng tra tấn vợ con anh. Tnú tận mắt chứng kiến cảnh kẻ thù đánh đập vợ con: Cây sắt thứ hai đập vào trước ngực Mai... Trận mưa cây sắt mỗi lúc một dồn dập. Không nghe thấy tiếng thét của Mai nữa. Chỉ nghe đứa bé khóc rẻ lên một tiếng rồi im bặt... Tnủ quay lại... Ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn. Anh bứt đứt hàng chục quả vả, mắt anh thành ngọn lửa, lửa căm thù bừng cháy dữ dội, anh lao ra xông vào giữa bọn giặc nhưng chỉ với hai bàn tay không, Tnú không thể cứu sống vợ con. Kẻ thù dùng nhựa xà nu đốt mười ngón tay Tnú hòng tiêu diệt ý chí của anh nhưng chúng không thể đốt được lòng dũng cảm và sự kiên cường Tnú không thèm, không thèm kêu van.... Bọn giặc tra tấn anh bằng chính khối nhựa của buôn làng, mười ngón tay Tnú thành mười ngọn đuốc căm thù, ngọn lửa kêu gọi đấu tranh cách mạng.
     Cuộc đời bi tráng và con đường đến với cách mạng của Tnú là điển hình cho con đường sống và đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên, góp phần làm sáng tỏ chân lí của thời đại, phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng, đấu tranh vũ trang là con đường tất yếu để tự giải phóng và cũng là con dường duy nhất.
-    Đánh giá:
+ Tnú – người anh hùng mà cụ Mết kể trong cái đêm dài ấy có những phẩm chất thật đáng quý. Anh may mắn hơn so với thế hệ đàn anh của mình như anh hùng núp và A Phủ, không còn phải sống kiếp tôi đòi cam phận, cam chịu và được thừa hưởng phong trào cách mạng từ cuộc kháng chiến chống pháp của dân tộc. Nhưng:
                                                                             Lớp cha trước, lớp con sau
                                                                  Đã thành đồng chí chung câu quân hành.

          Tất cả các anh đều là những con người ưu tú của núi rừng Tây Bắc, Tây Nguyên trong các cuộc đấu tranh vệ quốc, mang trong mình chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng của dân tộc Việt Nam, mãi mãi là tấm gương sáng cho các thế hệ tiếp nối.
+ Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài đã rất thấu hiểu nỗi khổ của người dân miền núi, từ đó thấy được sự thức tỉnh, sự vùng dậy của họ, trước hết là thoát khỏi dây trói của cường quyền và thần quyền. Quá trình giác ngộ cách mạng của A Phủ tiêu biểu cho con đường đến với Đảng, đến với cách mạng của đồng bào các dân tộc ít người ở miền núi Tây Bắc. Tô Hoài khi tái hiện bức tranh hiện thực với những nét bản chất của nó, không thể không miêu tả quá trình vận động mang tính quy luật của cuộc sống. Đây cũng là giá trị nhân đạo và tiến bộ của Vợ chồng Ả Phủ.
+ Xây dựng thành công nhân vật Tnú, nhà văn đã khắc họa được hình ảnh tiêu biểu của con người mang đậm dòng máu, tính cách của núi rừng Tây Nguyên. Và qua hình tượng Tnú, Nguyễn Trung Thành còn gợi ra được số phận và phẩm chất của cả cộng đồng trong cuộc chiến đấu bảo vệ buôn làng thân yêu. Đó là tình cảm gắn bó thiết tha sâu nặng với quê hương đất nước, với núi rừng Tây Nguyên, là lòng căm thù giặc sâu sắc, một lòng một dạ đi theo cách mạng, không ngại khó khăn, gian khổ, hy sinh, tin tưởng tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng.
d.    Bàn luận (0,5 điểm)
-    Qua sự so sánh hai nhân vật A Phủ trong tác phẩm của Tô Hoài và Tnú trong tác phẩm của Nguyễn Trung Thành, thấy được sự khép lại câu chuyện của A Phủ là sự mở ra câu chuyện của Tnú. Từ đó thấy được sự vận động, phát triển của thế hệ sau trong cuộc kháng chiến mang đậm chủ nghĩa anh hùng cách mạng của dân tộc so với thế hệ trước.
-    Khẳng định tài năng xây dựng hình tượng nhân vật sắc sảo, đậm giá trị nhân văn của Tô Hoài và Nguyễn Trung Thành. Chính tài năng nghệ thuật cũng như tấm lòng của nhà văn đã khiến cho nhân vật có sức sống trường tồn và hấp dẫn trong lòng độc giả.
4.    Chính tả, dùng từ, đặt câu (0,25 điểm):
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp, ngữ nghĩa Tiếng Việt.
5.    Sáng tạo (0,5 điểm):
Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.
 

Bài viết gợi ý: