BÀI BÌNH GIẢNG HAY TRÍCH ĐOẠN “TÌNH CẢNH LẺ
LOI CỦA NGƯỜI CHINH PHỤ”
(ĐẶNG TRẦN CÔN)
1.
Lý thuyết
1.1. Tác giả
-
Đặng Trần Côn (chưa rõ năm sinh năm mất), là người dân làng Nhân Mục (làng Mọc),
huyện Thanh Trì, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ
XVIII.
-
Ngoài “Chinh phụ ngâm”, ông còn làm thơ chữ Hán và viết một số bài phú chữ Hán.
1.2. Tác phẩm
-
“Chinh phụ ngâm” được viết năm 1740 trong hoàn cảnh nhiều cuộc khởi nghĩa nông
dân nổ ra quanh kinh thành Thăng Long.
-
“Chinh phụ ngâm” là khúc ngâm nói lên sự ai oán đối với cuộc chiến tranh phong
kiến phi nghĩa, đặc biệt là thể hiện tâm trạng khát khao tình yêu, hạnh phúc lứa
đôi.
- Đoạn trích học có tên “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”.
1.3. Đọc hiểu văn bản
1.3.1. Nỗi cô đơn, trống vắng, buồn tủi
trong sự chờ đợi vô vọng khiến người chinh phụ như tê liệt về tinh thần (16 câu
đầu)
a. Nỗi
cô đơn, thương nhớ chồng bao trùm không gian trong và ngoài căn phòng của người
chinh phụ (8 câu đầu)
“Dạo hiên vắng
thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ
thác đòi phen
Ngoài rèm thước chẳng
mách tin
Trong rèm dường đã
có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường
bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng
bi thiết mà thôi
Buồn rầu nói chẳng
nên lời
Hoa đèn kia với
bóng người khá thương.”
Nhà
thơ tập trung ngòi bút của mình để miêu tả hành động của người chinh phụ, qua
đó bộc lộ chuỗi tâm sự khó nói nên lời của nàng.
- Hành động lặp đi lặp lại: “dạo hiên vắng”, “ngồi rèm thưa”, kéo rèm rồi lại buông rèm. Trong sự lay lắt, nặng trĩu, nàng chỉ biết “gieo từng bước” với tâm thế buồn tủi, cô đơn lấn át cả trái tim và lí trí.
-
Chi tiết mới lạ độc đáo: “thước”
=> là con chim thước biểu tượng cho những điều tốt lành vui vẻ khi chúng xuất
hiện, nhưng thước lại “chẳng mách tin”,
không thể kiếm tìm nơi đâu một chút niềm vui nho nhỏ. Xung quanh nàng lúc này
chỉ là sự hoang vắng, bồn chồn không yên.
-
Nghệ thuật ấn tượng: Tác giả đã kết hợp một cách độc đáo và mới lại 2 thủ pháp
nghệ thuật điệp từ bắc cầu đan xen câu hỏi tu từ qua 2 câu thơ:
“Trong rèm dường
đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường
bằng chẳng biết”
Người
chinh phụ tìm đến ngọn đèn để gửi gắm tâm sự nhưng đứng trước ngọn đèn lúc này
có nghĩa là nàng đang đối diện với chính bản than mình, bởi lẽ “ngọn đèn” là một
vật vô tri vô giác thì làm sao có thể cùng nàng chia sẻ san sớt tâm tư nỗi
lòng. => Nỗi đau đớn càng tăng thêm và như đang sát muối vào trái tim của
cô.
-
Nàng sầu bi đến nỗi không còn thể nói nên lời, chỉ biết chịu đựng trong câm lặng,
trong bóng tối, một mình biết, một mình hay, làm gì cũng đơn chiếc, lẻ bóng.
“Lòng
thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn
rầu nói chẳng nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”
-
“Hoa đèn” kia được so sánh với “bóng người” thật khập khiểng nên mới kết
thúc câu thơ với hai từ “khá thương” cùng dấu chấm than đầy sự thương cảm. Vẻ đẹp
của người phụ nữ chẳng còn giữ được bởi đã tàn phai theo năm tháng mỏi mòn chờ
đợi, không còn hoa lệ như thuở ban đầu đầy thơ mộng nữa.
=>
Những hình ảnh khiến tim nàng đau nhói, gương mặt bần thần không còn xuân sắc
và nước mắt chẳng thể giữ được khô ráo, trên mí mắt luôn rung rung, tủi thân,
nàng có thể òa khóc bất cứ lúc nào. => Nỗi cô đơn đã ám ảnh, đeo bám nàng
không buông.
b. Tâm
trạng lẻ loi cô độc đã bao phủ lên cả thời gian, cả ngày và đêm (8 câu tiếp
theo)
“Gà eo óc gáy
sương năm trống
Hòe phất phơ rủ
bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng
như niên
Mối sầu dằng dặc tựa
miền biển xa
Hương gượng đốt hồn
đà mê mải
Gương gượng soi lệ
lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy
ngón đàn
Dây uyên kinh đứt
phím loan ngại chùng”
- Tiếng gà gáy “eo óc” mệt mỏi báo tin canh năm đến,
không gian thật sự quá vắng lặng, buồn, tĩnh mịch.
-
Hình ảnh “hòe”: cây hòe “phất phơ rủ” gợi lên không gian chẳng
còn chút sức sống, lờ mờ ánh sáng, hoang vắng và nhạt nhẽo.
=>
Cảnh vật xung quanh người chinh phụ đều nhuốm màu vô cảm, đau thương, vô định,
lạc lõng và thật sự đáng sợ. Đứng một mình trong không gian ấy, nàng cảm thấy
cô độc, chơi vơi và nhỏ bé.
-
Thời gian lại trôi qua một cách chậm chạp “Khắc
giờ đằng đẵng như niên”: Phép so sánh được sử dụng khéo léo, mỗi giờ trôi
qua cứ như một năm dài đằng đẵng trong lòng người chinh phụ, nặng nề khó tả.
Câu tiếp theo “Mối sầu dằng dặc tựa miền
biển xa” đã thể hiện được độ lớn của nỗi sầu ấy, nàng đang lạc trôi lênh
đênh, bất định, không biết sẽ đi về đâu.
-
Sử dụng từ láy: Theo từ điển Tiếng Việt thì “đằng đẵng” có nghĩa là dài quá, lâu quá, không biết bao giờ mới hết,
“dằng dặc” có nghĩa là kéo dài mãi
như không có giới hạn. Cả hay từ láy đều chỉ về thời gian, những cảm nhận về thời
gian đầy ắp tâm trạng. => Tạo nên âm hưởng của cảm giác buồn thương như tiếng
thở dài xa xôi, muôn thuở đợi trông người chồng.
=>
Tâm sự này chẳng biết nói cùng ai, không ai hiểu thấu nên bao trùm lên cảnh vật,
không gian và thời gian rộng lớn.
“Hương gượng đốt hồn
đà mê mải
Gương gượng soi lệ
lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy
ngón đàn
Dây uyên kinh đứt
phím loan ngại chùng”
Từng câu từng chữ hiện lên rõ nỗi ai oán trong lòng người chinh phụ.
-
Động từ “gượng” được điệp lại nhiều lần
thể hiện sự chán ngán, miễn cưỡng không muốn làm. Nàng cố gắng tìm mọi cách để có
thể thoát khỏi vòng bủa vây của những suy nghĩ nặng nề, sợ hãi. Bằng cách:
+
“gượng đốt hồn đà mê mải”
+
“gượng soi”
+
“gượng gảy ngón đàn”
Người chinh phụ cố dằn lòng cất giấu niềm đau, tô son điểm phấn, chơi vài nốt nhạc, gảy vài phím đàn để cảm nhận được những âm thanh trong trẻo, thơ mộng, mong tìm thấy thú vui cho khuây khỏa, khỏa lấp tâm trạng tồi tệ hiện tại. Nhưng nào có hay, nó đã chiếm hết thảy không gian nơi đây, tràn khắp cơ thể, lấn át cả trái tim và suy nghĩ nên nàng mới rơi vào tình cảnh “mê mải”, “lệ lại châu chan” khi nhìn vào gương, thấy hình ảnh thê thảm, tàn phai nhan sắc của mình. => Nàng lún sâu hơn trong tuyệt vọng, chạm đáy nỗi đau, không lối thoát.
-
Chi tiết ấn tượng “Dây uyên kinh đứt”
đã dự cảm về một việc không lành, có điềm báo khiến nàng càng thêm lo lắng, thấp
thỏm, bất an không biết có chuyện gì xảy ra với người chồng hay không. Suy nghĩ
rối ren nhưng đành ngẩn ngơ với nỗi cô đơn chất ngất trong tim mình.
-
Đoạn thơ trên có cách hình ảnh đáng chú ý: “sắt
cầm”, “uyên” là uyên ương =>
những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho tình yêu của đôi lứa nam nữ, nghĩa tình
phu thê, vợ chồng chung thủy sắt son. Bên nhau để lại quá nhiều kí ức, kỉ niệm
và kỉ vật tình yêu nên người chinh phụ không dám cầm tay chạm vào bất cứ thứ gì
gợi nhắc đến tình yêu đẹp của nàng, những ngày tháng đoàn tụ bên nhau, vì nó sẽ
khiến nàng đau khổ hơn gấp bội lần.
=>
Tóm lại qua 16 câu thơ đầu, người đọc có thể cảm nhận được nỗi cô đơn, cô độc,
sầu muộn của người chinh phụ đã phát triển lên tới đỉnh điểm trong tình cảnh lẻ
loi, chỉ có một mình. Đó là tâm trạng khắc khoải, mong chờ, khao khát sự đồng cảm
nhưng lại rơi vào bế tắc, vô vọng.
1.3.2. Nỗi niềm thương nhớ khắc khoải
về người chồng đi đánh trận ở nơi biên cương đầy hiểm nguy (8 câu cuối)
“Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến Non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong
Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa
phun”
Chẳng
thể gửi gắm tâm tư vào ai, người chinh phụ đành nhờ gió đông gửi tình cảm của
mình đến người chồng ở nơi biên cương, chiến trường xa xôi:
“Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến Non Yên”
Tâm
trạng mong chờ khao khát yêu thương, nhớ nhung lo lắng. Đây như là câu hỏi nói
lên thay tiếng lòng: “Lòng này gửi gió
đông có tiện?” Nỗi nhớ tràn ra cả không gian xa xôi rộng lớn bởi lẽ làm sao
đo được nỗi nhớ lớn thế nào. Câu thơ khiến ta liên tưởng đến hai câu thơ:
“Có một không gian nào
Đo chiều dài nỗi nhớ
Có khoảng mênh mông nào
Sâu thẳm hơn tình thương”
(“Ở hai đầu nỗi nhớ” –
Thơ Trần Đình Chính – Nhạc Phan Huỳnh Điểu)
Nàng
nhớ chồng nhiều đến thế thì chắc chắn rằng nơi chiến trường hiểm nguy ấy, chàng
cũng đang sống trong lo âu, chờ đợi, nhung nhớ, cố gắng hoàn thành nhiệm vụ để
trở về với mái ấm gia đình, về với mẹ già, về với vợ con thân yêu.
-
Hình ảnh ước lệ: “Non Yên”, “đường lên bằng trời”
-
So sánh nỗi nhớ với đường lên bằng trời bằng từ tính từ láy “thăm thẳm”.
“Thăm thẳm” thể hiện nhiều ngụ ý độc đáo
+
Chỉ độ dài của thời gian
+
Độ rộng của không gian
+
Độ sâu của nỗi nhớ
=>
Có thể thấy, khoảng cách chia ly càng lớn thì nỗi nhớ càng tang, niềm thương
càng da diết, mãnh liệt. Đến trời xanh cao vời vợi cũng không thể hiểu thấu được
nỗi lòng của người vợ “Trời thăm thẳm xa
vời khôn thấu”.
Nỗi
“đau đáu” của nàng đã dâng lên tột độ,
nàng nhìn vào cảnh vật xung quanh và làm nó trở nên tàn tạ, héo úa, chẳng còn
chút sức sống. Thật đúng với câu nói muôn đời của đại thi hào Nguyễn Du:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ…”
(“Truyện
Kiều”- Nguyễn Du)
Bút
pháp ngụ cảnh tả tình vô cùng độc đáo của nhà thơ, cách biểu hiện cũng rất mới
mẻ khi ông đã lột tả tâm trạng nhân vật một cách trực tiếp, hàm súc và ý nghĩa.
Hai
câu thơ khép lại đoạn trích:
“Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa
phun”
Sự
buốt giá, quạnh hiu trong tâm hồn người chinh phụ và dồn nén biết bao nhiêu là ảo
não, ước mong được ai đó đồng cảm, sẻ chia vơi bớt dù đó là một chút gió thoảng
hay thiên nhiên cảnh vật câm lặng xung quanh biết lắng nghe. Nhưng tất cả giờ
đây đã không còn thể hòa nhập cùng nàng => Nỗi lòng đã hoàn toàn phơi bày ra
cảnh vật => Nỗi xót xa và cay đắng giày vò cõi lòng nàng.
=>
Cảnh vật bên ngoài đã chuyển thành tâm cảnh.
* Tổng kết nghệ thuật:
+
Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật độc đáo, từ hành động, cử chỉ, cảnh vật, từ
láy kết hợp nhuần nhuyễn với độc thoại nội tâm.
+
Biện pháp tu từ: so sánh, câu hỏi tu từ, điệp ngữ, so sánh phóng đại
+
Nghệ thuật ngụ cảnh tả tình, mượn cảnh vật để bộc lộ cảm xúc, tâm trạng nhân vật.
+
Thể thơ: Song thất lục bát được sử dụng điệu nghệ, tài hoa, đượm tình, giàu cảm
xúc.
1.
Luyện tập
Đề: Phân tích giá trị nhân đạo trong trích
đoạn “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”.
a. Mở bài:
-
Giới thiệu tác giả Đặng Trần Côn và đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người
chinh phụ”
-
Đặng Trần Côn là người dân làng Nhân Mục (làng Mọc), huyện Thanh Trì, quận
Thanh Xuân, Hà Nội. Ông sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. Ngoài
“Chinh phụ ngâm”, ông còn làm thơ chữ Hán và viết một số bài phú chữ Hán.
-
Đoạn trích học có tên “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” được trích từ tác
phẩm “Chinh phụ ngâm” viết năm 1740. Là khúc ngâm nói lên sự
ai oán đối với cuộc chiến tranh phong kiến phi nghĩa, đặc biệt là thể hiện tâm
trạng khát khao tình yêu, hạnh phúc lứa đôi. => Cũng thể hiện được giá trị
nhân văn cao cả, ý nghĩa nhân đạo sâu sắc.
b. Thân bài:
- 16 câu đầu: Nỗi cô đơn,
trống vắng, buồn tủi trong sự chờ đợi vô vọng khiến người chinh phụ như tê liệt
về tinh thần
+
Nỗi cô đơn, thương nhớ chồng bao trùm không gian trong và ngoài căn phòng của
người chinh phụ (8 câu đầu)
“Dạo hiên vắng
thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ
thác đòi phen
Ngoài rèm thước chẳng
mách tin
Trong rèm dường đã
có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường
bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng
bi thiết mà thôi
Buồn rầu nói chẳng
nên lời
Hoa đèn kia với
bóng người khá thương.”
Nhà
thơ tập trung ngòi bút của mình để miêu tả hành động của người chinh phụ, qua
đó bộc lộ chuỗi tâm sự khó nói nên lời của nàng.
+
Hành động lặp đi lặp lại: “dạo hiên vắng”,
“ngồi rèm thưa”, kéo rèm rồi lại
buông rèm. Trong sự lay lắt, nặng trĩu, nàng chỉ biết “gieo từng bước” với tâm thế buồn tủi, cô đơn lấn át cả trái tim và
lí trí.
+
Chi tiết mới lạ độc đáo: “thước”
=> là con chim thước biểu tượng cho những điều tốt lành vui vẻ khi chúng xuất
hiện, nhưng thước lại “chẳng mách tin”,
không thể kiếm tìm nơi đâu một chút niềm vui nho nhỏ. Xung quanh nàng lúc này
chỉ là sự hoang vắng, bồn chồn không yên.
+
Nghệ thuật ấn tượng: Tác giả đã kết hợp một cách độc đáo và mới lại 2 thủ pháp
nghệ thuật điệp từ bắc cầu đan xen câu hỏi tu từ qua 2 câu thơ:
“Trong rèm dường
đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường
bằng chẳng biết”
Người
chinh phụ tìm đến ngọn đèn để gửi gắm tâm sự nhưng đứng trước ngọn đèn lúc này
có nghĩa là nàng đang đối diện với chính bản than mình, bởi lẽ “ngọn đèn” là một
vật vô tri vô giác thì làm sao có thể cùng nàng chia sẻ san sớt tâm tư nỗi
lòng.
“Lòng
thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn
rầu nói chẳng nên lời
Hoa
đèn kia với bóng người khá thương.”
+
“Hoa đèn” kia được so sánh với “bóng người” thật khập khiểng nên mới kết
thúc câu thơ với hai từ “khá thương” cùng dấu chấm than đầy sự thương cảm. Vẻ đẹp
của người phụ nữ chẳng còn giữ được bởi đã tàn phai theo năm tháng mỏi mòn chờ
đợi, không còn hoa lệ như thuở ban đầu đầy thơ mộng nữa.
-
Tâm trạng lẻ loi cô độc đã bao phủ lên cả thời gian, cả ngày và đêm (8 câu tiếp
theo)
+ Tiếng gà gáy “eo óc” mệt mỏi báo tin canh năm đến,
không gian thật sự quá vắng lặng, buồn, tĩnh mịch.
+
Hình ảnh “hòe”: cây hòe “phất phơ rủ” gợi lên không gian chẳng
còn chút sức sống, lờ mờ ánh sáng, hoang vắng và nhạt nhẽo. => Cảnh vật xung
quanh người chinh phụ đều nhuốm màu vô cảm, đau thương, vô định, lạc lõng và thật
sự đáng sợ. Đứng một mình trong không gian ấy, nàng cảm thấy cô độc, chơi vơi
và nhỏ bé.
+
Thời gian lại trôi qua một cách chậm chạp “Khắc
giờ đằng đẵng như niên”: Phép so sánh được sử dụng khéo léo, mỗi giờ trôi
qua cứ như một năm dài đằng đẵng trong lòng người chinh phụ, nặng nề khó tả.
Câu tiếp theo “Mối sầu dằng dặc tựa miền
biển xa” đã thể hiện được độ lớn của nỗi sầu ấy, nàng đang lạc trôi lênh
đênh, bất định, không biết sẽ đi về đâu.
+
Sử dụng từ láy: Theo từ điển Tiếng Việt thì “đằng đẵng” có nghĩa là dài quá, lâu quá, không biết bao giờ mới hết,
“dằng dặc” có nghĩa là kéo dài mãi
như không có giới hạn. Cả hay từ láy đều chỉ về thời gian, những cảm nhận về thời
gian đầy ắp tâm trạng. => Tạo nên âm hưởng của cảm giác buồn thương như tiếng
thở dài xa xôi, muôn thuở đợi trông người chồng.
=>
Tâm sự này chẳng biết nói cùng ai, không ai hiểu thấu nên bao trùm lên cảnh vật,
không gian và thời gian rộng lớn. Người chinh phụ cố dằn lòng cất giấu niềm
đau, tô son điểm phấn, chơi vài nốt nhạc, gảy vài phím đàn để cảm nhận được những
âm thanh trong trẻo, thơ mộng, mong tìm thấy thú vui cho khuây khỏa, khỏa lấp
tâm trạng tồi tệ hiện tại. Nhưng nào có hay, nó đã chiếm hết thảy không gian
nơi đây, tràn khắp cơ thể, lấn át cả trái tim và suy nghĩ nên nàng mới rơi vào
tình cảnh “mê mải”, “lệ lại châu chan” khi nhìn vào gương, thấy
hình ảnh thê thảm, tàn phai nhan sắc của mình. => Nàng lún sâu hơn trong tuyệt
vọng, chạm đáy nỗi đau, không lối thoát.
-
Nỗi niềm thương nhớ khắc khoải về người chồng đi đánh trận ở nơi biên cương đầy
hiểm nguy (8 câu cuối)
+
Chẳng thể gửi gắm tâm tư vào ai, người chinh phụ đành nhờ gió đông gửi tình cảm
của mình đến người chồng ở nơi biên cương, chiến trường xa xôi.
+
Có thể thấy, khoảng cách chia ly càng lớn thì nỗi nhớ càng tang, niềm thương
càng da diết, mãnh liệt. Đến trời xanh cao vời vợi cũng không thể hiểu thấu được
nỗi lòng của người vợ “Trời thăm thẳm xa
vời khôn thấu”.
+
Sự buốt giá, quạnh hiu trong tâm hồn người chinh phụ và dồn nén biết bao nhiêu
là ảo não, ước mong được ai đó đồng cảm, sẻ chia vơi bớt dù đó là một chút gió
thoảng hay thiên nhiên cảnh vật câm lặng xung quanh biết lắng nghe. Nhưng tất cả
giờ đây đã không còn thể hòa nhập cùng nàng.
-
Biểu hiện của tính nhân đạo:
+ Nhà thơ hiểu được nỗi đau đớn khôn thấu của người
chinh phụ, đặt mình vào nhân vật trữ tình để đồng cảm, chia sẻ, san sớt nỗi
đau.
+ Nhà thơ đã lên tiếng tố cáo chiến tranh phong kiến
phi nghĩa, đã gây ra bao tan thương cho con người.
+ Ngợi ca khao khát tình yêu đẹp của con người.
+ Ngòi bút bên vực con người, yêu tự do của tác giả…
c. Kết bài:
Tóm
tắt lại nội dung bài thơ, bằng ngòi bút trau chuốt chăm chút cho nhân vật của
mình, yêu thương con người cùng với tâm hồn thiết tha đồng cảm, tác giả Đặng Trần
Côn đã thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc, làm bài thơ thật ý nghĩa và mang tính
nhân văn cao cả.