Soạn bài hạnh phúc của một tang gia của Vũ Trọng Phụng
(Trích Số đỏ)
I. Tác giả và tác phẩm
1. Tác giả
Vũ Trọng Phụng (1912 – 1939) sinh tại Hà Nội, trong một gia đình nghèo. Cuộc đời của Vũ Trọng Phụng rất lận đận và nhiều gian truân, cuối đời ông mắc bệnh lao nhưng không có điều kiện chạy chữa. Ông mất khi sự nghiệp văn học đang còn ở giai đoạn phát triển cao nhất.
Vũ Trọng Phụng bắt đầu có truyện đăng báo từ năm 1930. Trong vòng chưa đầy mười năm từ ngày cầm bút, Vũ Trọng Phụng đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ, tiêu biểu là các phóng sự: Cạm bẫy người (1933), Kĩ nghệ lấy Tây (1934), Cơm thầy cơm cô (1936); các tiểu thuyết: Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê (1936), Lấy nhau vì tình (1937), Trúng số độc đắc (1938). Sáng tác của Vũ Trọng Phụng toát lên niềm căm phẫn mãnh liệt cái xã hội đen tối, thối nát đương thời. Vũ Trọng Phụng có những đóng góp đáng kể cho sự nghiệp phát triển của văn xuôi Việt Nam hiện đại.
2. Tác phẩm
Đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia được trích trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng. Tiểu thuyết này được đăng ở Hà Nội báo vào cuối năm 1936 và in thành sách vào năm 1938. Nhân vật chính trong Số đỏ là Xuân, thường gọi là Xuân Tóc Đỏ. Đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia thuộc chương XV của tiểu thuyết Số đỏ.
II. Tìm hiểu đoạn trích
Câu 1. Ý nghĩa của cách đặt nhan đề cho đoạn trích
- Cách đặt tên nhan đề rất lạ, gây cảm giác tò mò, chú ý cho người đọc và cũng thể hiện một nghịch ló nực cười: trong tang gia mà lại có hạnh phúc.
- Mâu thuẫn trào phúng cơ bản nằm ngay trong nhan đề. Mỗi thành viên trong gia đình đều cảm thấy sung sướng, thỏa mãn và thấy đây là một dịp hiếm có để mọi người thực hiện một ý đồ riêng. Bọn con cháu đều muốn cho cụ tổ chết để được sớm chia gia tài và làm những việc mình thích. Thật đúng là hạnh phúc của một gia đình vô phúc, niềm vui của những đứa con cháu bất hiếu nhưng lúc nào cũng tỏ ra đạo đức, văn minh.
- Trong đoạn trích này, tác giả cũng dựng nên bối cảnh của một tang gia bối rối; chẳng những bối rối mà còn rất lo lắng và bận rộn. Nhưng nghịch lí lại tiếp tục được bộc lộ khi lo lắng, bận rộn không phải cho một đám ma mà là lo tổ chức cho chu đáo, linh đình một ngày vui, một đám hội. Như vậy, cách đặt tiêu đề vừa gây chú ý cho người đọc, vừa phản ánh đúng một sự thật mỉa mai, hào hước và tàn nhẫn.
Câu 2. Niềm hạnh phúc của mọi người trong gia đình từ cái chết của cụ tổ.
- Niềm vui chung nhất của mọi người là tờ di chúc của cụ tổ đã trở thành hiện thực, con cháu được chia gia tài.Mọi người vừa vui vì có những khoản tiền kếch xù, vừa có dịp để phô trương cái “hiếu nghĩa” giả tạo của mình.
- Tất cả con cháu từ cụ cố Hồng cho đến vợ chồng Văn Minh, cô Tuyết, cậu Tân… và cả những người bạn tham gia đưa tang đều cảm thấy rất hãnh diện và hạnh phúc. Đây là dịp để họ phô trương những bộ trang phục hợp mốt thời thượng, để thiên hạ trầm trồ thán phục và để ra oai lẫn nhau.
+ Cụ cố Hồng mơ màng nghĩ đến cảnh mình mặc đồ xô gai chống gậy ho lụ khụ để thiên hạ bình phẩm ngợi khen.
+ Ông Văn Minh thì có dịp để khoe một mốt váy áo đại tang mới trong cái đám ma to nhất Hà Thành.
+ Cô Tuyết sẽ có dịp khoe thân thể nõn nà của mình, mặc một bộ áo thơ ngây để chứng tỏ mình còn trong trắng.
Câu 3. Cảnh đám ma gương mẫu qua ngòi bút châm biếm của tác giả
- Bằng nghệ thuật châm biếm sắc sảo, qua những chi tiết chọn lọc, hình ảnh đám tang lộ rõ sự đua đòi của lối sống văn minh rởm đời. Đám ma được dựng lên hết sức to tát, long trọng có thể nói ở Hà Thành trước đây chưa từng có. Một đám ma được tiến hành theo cả lối Tả, lối Tàu, lối Tây.. có đầy đủ những lớp người thượng lưu ăn mặc đẹp đẽ, sang trọng.
- Thực chất nút sau sự to tát, danh giá, long trọng ấy là những sự phô trương giả dối, sự rởm đời lố lăng, thể hiện tâm lí háo danh, háo thắng… của một lớp người trong xã hội thượng lưu lúc bấy giờ. Điều này được thể hiện qua những chi tiết đưa tang thật hổ lốn đến buồn cười; khiến tác giả phải đưa ra một câu văn nhận xét thể hiện sự trào lộng, mỉa mai đến cực độ: thật là một đám ma to tát có thể làm cho người nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu…!
- Ngoài các yếu tố gây mâu thuẫn để thể hiện chất trào phúng, tác giả còn sử dụng biện pháp phóng đại. Nhân vật được phóng đại với những hình dáng thật lố bịch, dị hợm. Chân dung của bọn người mang dang thượng lưu, văn minh được khắc họa mỗi người một nét, tất cả đều thể hiện hình thật sống động, nhốn nháo: những ông bạn của cụ cố Hồng – đại diện cho những vị tai to mặt lớn của xã hội thượng lưu dự tang để được khoe huân chương, khoe râu… và thật lố bịch, vô liêm sỉ biết bao khi cứ nhìn chằm chằm vào làn da trắng thập thò sau làn áo voan mỏng trên cánh tay và ngực của cô Tuyết; hàng trăm nam thanh nữ tú ăn mặc mô đen, hợp thời đang vừa cố ý tỏ ra buồn rầu nhưng chỉ ít phút sau lại nghe thấy họ cười tình với nhau, hẹn hò, nói chuyện ghen tuông, bình luận về những câu chuyện nhảm nhí… Tất cả đều biểu lộ mọi góc cạnh của cái tình vô văn hóa, vô đạo đức của bọn người cặn bã trong xã hội tư sản thành thị lúc bấy giờ.
Câu 4. Nghệ thuật trào phúng đặc sắc được thể hiện trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia.
- Từ một tình huống trào phúng cơ bản – Hạnh phúc của một tang gia được tác giả triển khai mâu thuẫn theo nhiều tình huống khác nhau, tạo nên một màn hài kịch lớn, phong phú và biến hóa khôn lường gây nhiều thú vị cho người đọc. Một trong những thủ pháp quen thuộc được tác giả sử dụng là phát hiện những chi tiết đối lập gay gắt nhưng cùng tồn tại trong một sự vật, một con người để từ đó làm bật lên tiếng cười châm biếm.
- Ngoài ra, tác giả còn sử dụng nhiều thủ pháp cường điệu: nói ngược, nói mỉa mai… sử dụng đan xen linh hoạt trong đoạn trích và đều mang lại hiệu quả nhất định. Chẳng hạn, cái chết của cụ tổ khiến mọi người trong cái đại gia đình bất hiếu không ai giống ai. Đặc biệt, đám rước đưa ma được tổ chức nhố nhăng, lố bịch và nó trở thành cơ hội tốt để mọi người gặp gỡ, giao lưu, phô trương thanh thế và cười cợt, nói xấu, nói mỉa nhau...
- Tác giả còn có con mắt tinh đời để nhìn thấy và miêu tả đúng cái nét riêng của từng nhân vật xuất hiện trong đoạn trích. Ngòi bút miêu tả của Vũ Trọng Phụng linh hoạt, biến hóa, giàu yếu tố hài hước gây cười và sắc sảo tinh tế đến từng chi tiết nhỏ. Vũ Trọng Phụng xứng đáng là một bậc thầy – một nhà văn hiện thực xuất sắc trong việc sử dụng nghệ thuật trào phúng.