Soạn bài luyện tập thao tác lập luận so sánh
1. Cho bài thơ Chế Lan Viên, Trở lại An Nhơn và Hạ Tri Chương, Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê.
Tình cảm của hai nhà thơ trong hai đoạn thơ trên:
- Điểm giống nhau : cả hai người đều rời quê hương ra đi lúc còn trẻ và trở về lúc tuổi đã cao.
Khi đi trẻ, lúc về già (Hạ Tri Chương)
Trở lại An Nhơn, tuổi lớn rồi (Chế Lan Viên)
- Khi trở về, cả hai đều trở thành người xa lạ trên chính nơi mình đã sinh ra.
+ Hạ Tri Chương viết: Hỏi rằng khách ở chốn nào lại chơi vì không còn ai nhận ra mình là người cùng quê cả.
+ Chế Lan viên viết: Chẳng lẽ thăm quê lại hỏi người vì quê hương đã biến đổi quá nhiều sau chiến tranh; không còn cảnh cũ, người xưa đâu nữa.
- Hạ Chi Chương sống trước Chế Lan Viên hơn 1000 năm. Cảnh vật, tình cảm con người đã có bao biến đổi. Đó là điều dĩ nhiên. Tuy thế, giữa hai người xưa và nay vẫn có những nét tương đồng. Đọc người xưa cũng là dịp để hiểu người nay sâu sắc hơn và để hiểu những tình cảm nhân văn mang tính nhân loại vậy.
2. Học cũng có ích như trồng cây, mùa xuân được hoa, mùa thu được quả. Trong câu văn này, mùa xuân và mùa thu là hình ảnh ẩn dụ. Mùa xuân, mùa thu ở đây là chỉ các giai đoạn khác nhau: ban đầu là lúc đơm hoa, cùng với thời gian sẽ thu hoạch quả ngọt. Chuyện học hành cũng vậy. Cùng với thời gian tích lũy kiến thức, người học rồi sẽ tiến bộ dần và đi đến thành công. Đây là một câu so sánh để ta thêm kiên nhẫn trên con đường học tập.
3. So sánh ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương và ngôn ngữ thơ Bà Huyện Thanh Quan qua hai bài thơ Tự Tình I và bài Chiều hôm nhớ nhà.
- Hai bài thơ có nhiều điểm tương đồng: cùng là thể thơ thất ngôn bát cú, cả hai bài đều gieo vần chặt chẽ và đều tuân thủ nghiêm chỉnh luật đối (câu 3, 3 và câu 5, 6).
- Hai bài thơ có nhiều điểm khác nhau, nhất là cách dùng từ:
+ Bài thơ của Hồ Xuân Hương dùng nhiều từ ngữ trong ngôn ngữ hàng ngày như: tiếng gà văng vẳng, mõ thảm, chuông sầu, những tiềng rền rĩ, khắp mọi chòm…; kể cả những từ ngữ rất khó dùng như: cớ sao om, duyên mõm mòn, già tom. Trong bài chỉ có một câu nhiều từ Hán Việt là: Tài tử văn nhân ai đó tá?
+ Trong khi bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan lại dùng rất nhiều từ Hán Việt: hoàng hôn, ngư ông, viễn phố, cô thôn, lữ thứ, hàn ôn… nhiều từ ngữ mang tính ước lệ, được dùng nhiều trong thơ cổ như : ngàn mai, dặm liễu.
- Sự khác nhau trên tạo ra sự khác nhau về phong cách:
+ Bài thơ của Hồ Xuân Hương có phong cách gần gũi với đám đông, tuy có xót xa nhưng vẫn có những nét tinh nghịch.
+ Bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan mang phong khách đài các, trang nhã. Đó là tiếng nói của văn nhân trí thức thượng lưu.
- Mỗi bài thơ đều có nét đọc đáo và cái hay riêng.