TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
- Hồ Chí Minh -

1. Hoàn cảnh ra đời:
- Sau hàng ngàn năm dưới chế độ phong kiến, hàng trăm năm dưới chế độ thực dân, mùa thu năm 1945, nhân dân Việt Nam đã làm cuộc cách mạng tháng Tám thắng lợi, giành độc lập tự do cho đất nước, giành chính quyền về tay nhân dân.
- Ngày 26/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Việt Bắc trở về Hà Nội, tại ngôi nhà số 48 Hàng Ngang, Bác đã soạn thảo Tuyên ngôn độc lập, và ngày 02/9/1045, tại quảng trường Ba Đình Hà Nội, Bác đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Đây cũng là lúc hoàn cảnh nước ta rất phức tạp, bọn thực dân đế quốc đang âm mưu xâu xé nước ta, nấp sau danh nghĩa quân Đồng minh vào tước khi giới quân đội Nhật: Phía Bắc là quân đội Quốc dân đảng, tay sai của đế quốc Mỹ đã trực sẵn ở biên giới để đổ bộ vào Việt Nam, tiến vào từ phía Nam là quân đội Anh, phía sau là lính viễn chinh Pháp
Ngày 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng đã nhận định mâu thuẫn giữa Anh, Pháp, Mỹ và Liên Xô có thể khiến Anh, Mỹ sẽ nhân nhượng để cho Pháp trở lại Việt Nam. Còn Pháp, để chuẩn bị cho cuộc xâm lược lần thứ hai, chúng đã đưa ra một chiêu bài rất dễ đánh lừa công luận quốc tế: Pháp có công khai hóa Đông Dương, đây vốn là đất bảo hộ của Pháp bị Nhật chiếm. Nay Nhật đã đầu hàng Đồng minh, Pháp đương nhiên có quyền trở lại Đông Dương thay thế quân đội Nhật.
Hoàn cảnh ra đời đã cho thấy đối tượng và mục đích của bản Tuyên ngôn độc lập. Đối tượng của bản Tuyên ngôn không chỉ là “đồng bào cả nước” như trong lời mở đầu mà còn là các nước trên thế giới, chủ yếu là phe Đồng minh, trong đó có Anh, Mỹ, đặc biệt là Pháp. Như vậy mục đích của bản Tuyên ngôn không chỉ là tuyên bố độc lập dân tộc, nội dung bản tuyên ngôn còn có thể coi là một cuộc tranh luận ngầm đối với những đối tượng ấy để bác bỏ luận điệu kẻ cướp của thực dân Pháp. Xác định được đối tượng và mục đích hướng tới của bản Tuyên ngôn độc lập, người đọc sẽ hiểu sâu sắc hơn nội dung tư tưởng, giọng điệu và cách lập luận của tác phẩm.
2. Nội dung chính (mục đích sáng tác):
- Khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam trên cơ sở chân lý lẽ phải không thể chối cãi, xuất phát từ thực tế Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập và sự thật đã chiến đấu ngoan cường để trở thành một nước tự do độc lập.
- Lên án, tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở Đông Dương, kết hợp với những cứ liệu hùng hồn để phủ nhận quyền của thực dân Pháp với Việt Nam, bác bỏ luận điệu xảo trá, sai trái của chúng trước dư luận quốc tế, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới với sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc.
- Khẳng định quyết tâm chiến đấu của nhân dân Việt Nam để giữ vững quyền tự do độc lập.

Giá trị lịch sử và giá trị văn học của Tuyên ngôn độc lập
1. Giá trị lịch sử
- Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử đúc kết nguyện vọng sâu sắc của dân tộc Việt Nam về quyền độc lập, tự do, cũng là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh gần 100 năm của dân tộc ta để có thể có được quyền thiêng liêng và chính đáng ấy.
- Bản Tuyên ngôn độc lập đã tuyên bố chấm dứt chế độc thực dân phong kiến ở Việt Nam, khẳng định quyền tự chủ và vị thế bình đẳng cho dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc ta: kỷ nguyên độc lập, tự do, kỷ nguyên nhân dân làm chủ đất nước.
2. Giá trị văn học
- Tuyên ngôn độc lập là áng văn chương yêu nước lớn của thời đại cách mạng. Tác phẩm đã khẳng định mạnh mẽ quyền độc lập của dân tộc Việt Nam, gắn độc lập dân tộc với quyền sống của con người, nêu cao truyền thống yêu nước, truyền thống nhân đạo củ người Việt Nam, đó cũng là những cảm hứng bao trùm trong lịch sử văn học Việt Nam.
- Tuyên ngôn độc lập là áng văn chính luận mẫu mực. Dung lượng tác phẩm ngắn gọn hàm súc; kết cấu tác phẩm chặt chẽ, mạch lạc; lập luận đanh thép giàu sức thuyết phục; chứng cứ cụ thể xác thực; ngôn ngữ chính xác gợi cảm, tác động mạnh mẽ vào cả nhận thức và tình cảm của người đọc, người nghe.

                                                                      ĐỀ 1

                    Tuyên ngôn Độc lập và nghệ thuật viết văn chính luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Đọc Tuyên ngôn Độc lập ta thấy: lý lẽ, suy tư, luận giải của nhà khoa học, nhà văn, của sử gia, triết gia, luật gia, chính trị gia, kinh tế gia v.v… được thể hiện thông qua suy nghĩ và ngôn từ của chỉ một lớp người đó là quảng đại công chúng Việt Nam hồi Cách mạng Tháng Tám.
Sau Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi,Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh được xem như là Tuyên ngôn độc lập thứ ba trong lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Toàn văn bản Tuyên ngôn Độc lập chỉ có 1.010 chữ, sắp xếp trong 49 câu, nhưngTuyên ngôn Độc lập đã hàm chứa một nội dung rất to lớn và sâu sắc. Đó là sự đúc kết cao nhất, cô đọng nhất nội dung cuộc Cách mạng Tháng Tám - cuộc cách mạng đã đem lại cho xã hội Việt Nam một sự biến đổi chưa từng thấy trong lịch sử, cuộc cách mạng đầu tiên ở Việt Nam nhằm dựng lên một xã hội tương lai không có áp bức giai cấp, không có tệ người bóc lột người.
Một trong những yếu tố quan trọng đưa Tuyên ngôn Độc lập lên tầm của một áng văn chính luận kiệt xuất là nghệ thuật viết ngắn, viết giản dị.
Rất giản dị mà lại rất vững chãi. Giản dị vì ai cũng hiểu. Vững chãi vì không ai bẻ được, vì nó lấy thực tế sôi bỏng của cách mạng làm cốt lõi, vì nó bắt nguồn từ lòng yêu thương, kính trọng quần chúng nhân dân. Lý luận đó càng tăng tính thuyết phục khi ta thấy chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã áp dụng thật nghiêm túc và thu được những thành công rực rỡ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyên viết ngắn. Ngắn mà có nội dung. Trong cuốn Sửa đổi lối làm việc viết năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Viết dài mà rỗng thì không tốt, viết ngắn mà rỗng cũng không hay. Chúng ta phải chống tất cả những thói rỗng tuếch. Nhưng trước hết phải chống thói đã rỗng lại dài”. Đọc Tuyên ngôn Độc lập ta thấy nội dung đậm đặc trong từng câu, từng chữ. Toàn bộ lịch sử xã hội Việt Nam trong hơn 80 năm dưới ách cai trị của thực dân Pháp, rồi phát xít Nhật được khái quát lại trong 622 chữ, 186 chữ dành cho việc vận dụng pháp lý quốc tế suốt hơn một thế kỷ rưỡi để khẳng định quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam, toàn bộ những trói buộc về mặt pháp lý mà thực dân Pháp đã bỏ ra ngót một thế kỷ để tạo dựng đối với Việt Nam bị xóa bỏ gọn trong một câu với 58 chữ, còn chí khí Việt Nam, sức mạnh Việt Nam, tương lai Việt Nam thì được khẳng định trong 144 chữ.
Nhiều người nghiên cứu văn học, nghệ thuật trên thế giới đã tập trung trí tuệ vào một vấn đề được xem như là đặc biệt quan trọng. Đó là vấn đề tiếp nhận văn học, nghệ thuật. Sau khi đã hao tốn không biết bao nhiêu thì giờ, giấy mực, không biết bao nhiêu là chất xám, người ta mới phát hiện ra một điều rất giản dị rằng: chẳng phải ai khác mà chính là công chúng và chỉ có công chúng mới là trọng tài công minh nhất của văn học, nghệ thuật. Mà khi đã suy tôn công chúng lên cái vị trí danh dự ấy thì trước hết phải lấy họ làm đối tượng chính để phục vụ.
Điều này, với Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành một chân lý hiển nhiên. Viết cho ai đọc và viết để làm gì? Câu hỏi đó được Người trả lời dứt khoát: “Viết cho đại đa số nhân dân đọc” và “viết để phục vụ quần chúng nhân dân”. Mà muốn thế thì trước hết những gì viết ra phải thật dễ hiểu, những gì nói ra phải đến tận tai người dân.
Báo Cứu Quốc, số ra ngày 5 tháng 9 năm 1945 cho biết: trong khi đọc Tuyên ngôn Độc lập tại Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói thêm một câu không có trong văn bản. Câu đó là: “Tôi nói thế đồng bào có nghe rõ không?”. Đó là một cử chỉ hết sức đẹp của một vị lãnh tụ cách mạng. Nó thể hiện cái cao cả về đạo đức, cái sâu đậm về tình cảm.
Lý luận về nghệ thuật viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh là như vậy. Nó nằm trong cả một hệ thống lý luận của Người về quan điểm quần chúng. Lý luận này rõ ràng đã được thể nghiệm nhiều qua thực tiễn viết và nói của Người. Mà một thể nghiệm thành công lớn nhất là Tuyên ngôn Độc lập. Trong 49 câu của văn bản lịch sử trọng đại ấy có tới 45 câu thuộc loại câu đơn giản. Có cả một loại câu rất ngắn. Mỗi câu chỉ 10 chữ trở lại. Câu thì ngắn mà ý nghĩa nội dung thì đầy ắp.
Sau khi trích ra hai đoạn ngắn trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ và trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ hạ một câu: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. - Chỉ 10 chữ thôi mà ý nghĩa tổng kết thật cao, chính nghĩa được khẳng định một cách đanh thép. Câu thứ 19: tố cáo thực dân Pháp: “Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu” - chỉ 9 chữ. Câu thứ 13: “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học” - cũng chỉ 9 chữ. Câu thứ 11: “Chúng thi hành những luật pháp dã man” - chỉ 8 chữ thôi...
Những câu ngắn gọn, giản dị như muôn triệu câu nói thường ngày của bình dân, vậy mà đặt vào đây lại có sức buộc tội thật là chặt đối với kẻ thù!
Và câu thứ 15: “Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu” - sức tố cáo sắc bén là thế, văn chương ngời hình ảnh là thế mà cũng chỉ phải dùng tới 12 chữ mà thôi. Còn bức tranh toàn cảnh của phía kẻ thù trước bão táp Cách mạng Tháng Tám thì được vẽ lên bằng một câu rất ngắn: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị” - 9 chữ thôi mà thật là sinh động, thật là sắc bén, làm hiện lên trước mắt người đọc, người nghe cả một cảnh tượng phía kẻ thù vừa tan tác, vừa tiêu điều, vừa thảm hại!
Trong 49 câu của Tuyên ngôn Độc lập có ba câu dài. Dài nhất là câu thứ 42, gồm 58 chữ. Câu dài nhưng không phải là câu phức tạp. Dài nhưng không rối. Nó được xếp đặt theo thứ tự của luận lý thông thường trong suy nghĩ của đông đảo công chúng. Cho nên nó rất dễ dàng thấm vào nhận thức của quảng đại quần chúng nhân dân - đối tượng mà suốt đời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hết lòng, hết sức phục vụ và Người thường khuyên người cầm bút, người cán bộ cách mạng nói chung, hãy hướng vào đó mà phục vụ.

                                                                    ĐỀ 2

Nhận xét về tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh, có ý kiến cho rằng "Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử vô giá". Ý kiến khác lại khẳng định "Tuyên ngôn độc lập là một áng văn chính luận mẫu mực". Bình luận về những ý kiến trên.

 

Ngày 02/ 09/ 1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, trước sự chứng kiến của hàng triệu nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản "Tuyên ngôn độc lập" đánh dấu sự thắng lợi vẻ vang của cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 và tuyên bố khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng Hòa. Ra đời trong bối cảnh đó, tác phẩm trên đã trở thành văn kiện lịch sử vô giá đóng vai trò quan trọng đối với lĩnh vực chính trị - quân sự, đồng thời còn là áng văn chính luận mẫu mực trong nền văn học nước nhà.

Trước hết, "Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử vô giá". Bản Tuyên ngôn ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta vừa dành được nền độc lập dân tộc và phải đối mặt với vô vàn khó khăn về kinh tế - văn hóa - xã hội, đặc biệt là về mặt chính trị - quân sự. Tuy nhân dân ta là lực lượng trực tiếp đánh đuổi phát xít Nhật ra khỏi bờ cõi quê hương nhưng thực dân Pháp vẫn tuyên bố Đông Dương vốn là khu vực dưới sự "bảo hộ" của người Pháp, nay Nhật rút quân thì dĩ nhiên nước ta phải tiếp tục trở về là thuộc địa của người Pháp. Bên cạnh đó, các lực lượng khác như quân đội Anh, Mỹ dưới danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật lũ lượt kéo vào nước ta. Trong bối cảnh rối ren đó, sư ra đời của bản Tuyên ngôn đã trở thành văn kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với dân tộc Việt Nam. Trước hết, văn bản đã khẳng định quyền độc lập, tự do và quyền làm chủ của nhân dân Việt Nam sau khi giành được hòa bình. Lời tuyên bố đó hướng đến toàn bộ các nước trên thế giới, đặc biệt là các thế lực đang lăm le quay lại xâm lược nước ta một lần nữa. Đồng thời, nêu bật ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập, chủ quyền của toàn thể nhân dân ta: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết tâm đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy". Đặc biệt, giá trị vô giá về phương diện lịch sử đã được khẳng định hơn nữa qua việc "Tuyên ngôn độc lập" là tiếng nói đại diện cho toàn thể nhân dân Việt Nam, trở thành văn kiện lịch sử mang tầm cỡ quốc gia: "Chúng tôi, lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng...". Qua những gì đã phân tích, chúng ta có thể thấy được giá trị, ý nghĩa lịch sử của văn kiện "Tuyên ngôn độc lập".

Không chỉ dừng lại ở đó, "Tuyên ngôn độc lập" còn là "một áng văn chính luận mẫu mực". Tác phẩm đã thể hiện rõ đặc trưng của thể văn chính luận qua hệ thống lập luận logic, chặt chẽ cùng hệ thống luận điểm rõ ràng, lí lẽ và dẫn chứng thuyết phục cùng văn phong súc tích, ngắn gọn, đanh thép. Trước hết, tác giả nêu lên nguyên lý chung làm cơ sở của nền độc lập qua việc trích dẫn hai bản "Tuyên ngôn độc lập" (1776) của Mỹ và "Tuyên ngôn về Nhân quyền và Dân quyền" (1791) của Pháp, tạo nên tác dụng to lớn trong việc đáp trả lại những luận điệu xảo trá của giặc ngoại xâm, đồng thời đặt cuộc cách mạng của nhân dân ta ngang hàng với các cuộc cách mạng khác trên thế giới. Như vậy, cơ sở pháp lí vững chắc đã được trình bày một cách khéo léo nhưng vẫn đầy kiên quyết. Tiếp theo, tác giả đã tố cáo tội ác của thực dân Pháp và khẳng định các cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta. Luận điểm này đã được triển khai qua những lí lẽ hùng hồn, bằng chứng xác thực, đập tan luận điệu xảo trá muốn "hợp pháp hóa" mong muốn tiếp tục đô hộ dân tộc ta một lần nữa. Đó là những tội ác về sự áp bức bóc lột tàn bạo qua việc tiến hành chính sách cai trị về mọi mặt như văn hóa, chính trị, giáo dục; và khi Nhật tiến vào Đông Dương, Pháp không ngần ngại dâng nước ta cho Nhật. Tính mẫu mực của văn kiện lịch sử vô giá này còn được thể hiện qua lời tuyên ngôn về ý chí cùng quyết tâm cao độ bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc ta. Đặc biệt, tuy là văn kiện chính trị nhưng tác phẩm không hề khô khan mà vẫn chứa đựng tình cảm nồng nhiệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là sắc thái chắc chắn khi nêu lên nguyên lí cơ sở của nền độc lập cùng quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc, là sự căm giận khi liệt kê những tội ác man rợ của thực dân Pháp. Điều này đã khiến cho "Tuyên ngôn độc lập" không chỉ là một văn bản chính luận khô khan với những lí lẽ đanh thép mà còn mang giọng điệu riêng của niềm tự hào và sự hùng tráng.

Qua những gì đã phân tích, chúng ta có thể khẳng định hai ý kiến trên không hề đối lập, mâu thuẫn mà thống nhất, bổ sung cho nhau để làm nổi bật giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Về mặt nội dung, Tuyên ngôn độc lập là văn kiện lịch sử vô giá, về nghệ thuật, đó là văn bản chính luận mẫu mực. Tất cả đã được thể hiện qua kết cấu lập luận chặt chẽ, logic, lập luận đầy sức thuyết phục, hệ thống luận điểm rõ ràng, lí lẽ hùng hồn, đanh thép. Giọng điệu của tác phẩm có sự linh hoạt qua những câu văn uyển chuyển và giàu sức thuyết phục, thể hiện rõ nhãn quan chính trị sắc bén của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Như vậy, "Tuyên ngôn độc lập" là một áng văn chính luận mẫu mực, đồng thời là văn kiện có giá trị lịch sử to lớn của dân tộc Việt Nam. Đó là sự tiếp nối, kế thừa và phát huy, mở rộng những tư tưởng, quan điểm về độc lập, tự do dân tộc đã được nêu bật qua những tác phẩm như "Nam quốc sơn hà" của Lý Thường Kiệt và "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi. Chính điều này đã tạo nên giá trị vô giá cùng sức sống bất hủ, trường tồn theo thời gian của bản tuyên ngôn.

NÂNG CAO HƠN VỀ TÁC PHẨM

 

A. KIN THỨC BẢN

1. Th Loi

a.Văn chính luận: Thể văn chính luận là lối văn hùng biện, được sáng tác theo tư duy lôgic trí tuệ, thuyết phục ở lẽ đanh thép, lập luận chặt chẽ, luận cứ hùng hồn, bằng chứng không thể chối cãi được nhằm tuyên truyền, thuyết phục và kêu gọi người đọc, người nghe ủng hộ chính kiến, quan điểm của người viết.

b. Th loi tuyên ngôn

- Tuyên ngôn văn kiện của một quốc gia một chính đảng hoặc một nhà tưởng nào đó nhằm bày tỏ thái độ, lập trường, cương lĩnh trước các vấn đề trọng đại về chính trị, tưởng, nghệ thuật, tôn giáo, dân tộc, học thuật…

- Tuyên ngôn Độc Lập văn kiện của quốc gia nhằm tuyên bố độc lập và bày tỏ thái độ lập trường của toàn thể dân tộc Việt Nam với nền độc lập của dân tộc.

2. Hoàn cnh sáng tác

Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh một áng văn chính luận bất hủ văn

kiện lịch sử giá ra đời trong bối cảnh lịch sử hết sức đặc biệt.

- Từ ngày 14 tháng 8 đến ngày 28 tháng 8 năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Tổng

bộ Việt Minh mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám

của nhân dân ta đã giành thắng lợi trong cả nước. Ngày 26 tháng 8 năm 1945, Hồ Chí

Minh rời căn cứ địa Việt Bắc về Nội, tại căn nhà số 48 Hàng Ngang người đã chủ

trì một số cuộc họp quan trọng của Thường vụ Trung ương Đảng và viết bản Tuyên

ngôn Độc Lập chuẩn bị ra mắt chính phủ lâm thời. Theo Bác thì đây một trong

những áng văn Người viết một sai một cách say sưa hứng thú nhất. Sáng ngày

mùng 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình, Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên

Ngôn Độc Lập trước quốc dân đồng bào nhân dân thế giới tuyên bố về sự ra đời của

nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Để tái hiện lại giờ phút thiêng liêng khi Bác đọc

Bản tuyên ngôn tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, trong bản trường ca “ Theo chân

Bác”, Tố Hữu đã viết mấy câu thơ thật chân thực xúc động:

Người đọc tuyên ngôn…rồi cht hi:

Đồng bào nghe tôi nói không?”

Ôi câu hỏi hơn mọi li kêu gi

Rất đơn m bao lòng

C muôn triu mt lời đáp: Có”

Như Trường sơn say gió Biển Đông

Vâng Bác nói chúng con nghe

Mi lời Người mang nng núi sông

- Trong khi dân ta hân hoan chào đón đền độc lập thì ngoài biên cương xuất

hiện những cơn bão tố hòng cuốn đi cờ đỏ sao vàng - thành quả của cách mạng. Đây

lúc hoàn cảnh nước ta rất phức tạp, bọn thực dân, đế quốc lấp sau danh nghĩa quân

Đồng minh vào tước khí giới quân đội Nhật đang âm mưu xâu Việt Nam: phía bắc

quân đội Quốc dân đảng, tay sai của đế quốc đã chực sẵn ở biên giới để đổ quân

vào Việt Nam, tiến vào từ phía nam quân đội Anh, phía sau là lính viễn chinh Pháp.

Ngày 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng đã nhận định: mâu thuẫn giữa Anh -

Pháp - Mĩ Liên thể khiến Anh - Mĩ sẽ nhân nhượng để cho Pháp trở lại Đông

Dương.

- Còn thực dân Pháp, để chuẩn bị cho cuộc xâm lược lần thứ hai, chúng đã đưa ra

một chiêu bài rất dễ đánh lừa công luận quốc tế: Thực dân Pháp tuyên bố: Đông

Dương thuộc địa ca Pháp b Nht chiếm đóng, nay Nhật đầu hàng nên Đông

Dương phải thuc quyn ca Pháp”.

Tiu kết: Chính trong khoảnh khắc lịch sử trọng đại ấy, Tuyên ngôn Độc lp đã ra

đời không chỉ mệnh lệnh của trái tim, sự thôi thúc bên trong của tác giả còn

tiếng nói của lịch sử hào hùng. đó hùng khí của dân tộc đã gặp hùng tâm của người

chắp bút, của cảm xúc biên trong tâm hồn vị lãnh tụ đại, nên âm hưởng của bản

tuyên ngôn sẽ luôn giữ được vẻ hào sảng của một thời khắc, một giai đoạn một đi

không trở lại của dân tộc.

3. Đối tượng mục đích của bn tuyên ngôn

a. Đối tượng

Hoàn cảnh ra đời đã cho thấy hơn đối tượng và mục đích của bản Tuyên

ngôn Độc lp. Đối tượng hướng tới của bản Tuyên ngôn không chỉ đồng bào c

nước như trong lời mở đầu còn các nước trên thế giới, chủ yếu là phẹ Đồng

minh trong đó Anh - Mĩ, đặc biệt là Pháp.

-Trên quảng trường Ba Đình rực nắng, giữa trời thu Hà Nội xanh cao lồng lộng,

giọng của bác xiết bao xúc động khi hướng tới đồng bào c nước nhân dân chính

người đã viết lên trang sử dân tộc, những chủ nhân của đất nước. Hai tiếng đồng

bào giản dị rưng rưng niềm cảm động yêu thương, đã lay động tận sâu thẳm trái

tim của người dân Việt Nam về cội nguồn con lc cháu Hng thiêng liêng. Giây phút

thiêng ấy giọng nói của Người ngọt ngào như giọng của mẹ, ấm áp như lời của cha và

âm vang như tiếng nói của cha ông của lịch sử vọng về:

Ôi người cha đôi mắt m hin sao

Ging của Người không phi sm trên cao

m tng tiếng thm vào lòng mong ước

Con nghe bác tưởng nghe lời non nước

Tiếng ngày xưa cả tiếng mai sau

-Thay mặt cho nhân dân Việt Nam, Bác còn viết cho nhân dân thế giới, cho

công luận quốc tế Chúng tôi, Chính ph lâm thi của nước Vit Nam Dân ch cng

hòa, trnh trng tuyên b vi thế giới

- Nhưng trước hết sâu xa hơn Người đã hướng tới các thế lực Đế quốc Anh,

Pháp, Mỹ phản động Trung Hoa Quốc dân Đảng đang tung ra trước luận

thế giới những lý lẽ hùng hồn, những luận điệu xảo trá nhằm hợp thức hóa cuộc chiến

tranh xâm lược Việt Nam.

b. Mục đích:

do đó, mục đích của bản Tuyên ngôn không chỉ tuyên bố độc lập dân tộc,

nội dung bản Tuyên ngôn còn thể coi là một cuộc tranh luận ngầm nhằm bác bộ

luận điệu kẻ cướp của thực dân Pháp. Chính đối tượng và mục đích đã chi phối sâu sắc

nội dung tư tưởng, giọng điệu và nghệ thuật lập luận trong tác phẩm Tuyên ngôn Độc

lp.

4. B cc

Tuyên ngôn độc lập được viết theo thể tuyên ngôn gồm ba phần:

- Phần I ( từ hỡi đồng bào đến không ai chối cãi được): Nêu nguyên chung làm

nền tảng lí luận cho bản Tuyên ngôn.

- Phần II ( từ Thế đến chế độ Dân ch Cng hòa): đối chiếu nguyên chung

với tình hình thực tế Việt Nam để phơi trần bộ mặt thật của Pháp.

- Phần III ( Từ Bi thế cho nên đến hết): Lời tuyên bố độc lập.

B. PHÂN TÍCH BN TUYÊN NGÔN

1. Phần sở pháp ca bn tuyên ngôn

- Trước hết, Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc ta trên

sở pháp lí. Không giống như Thường Kiệt khẳng định chủ quyền độc lập dựa

trên yếu tố tâm linh “thiên thư”: Rành rành định phn ti sách tri (Nam quốc sơn

hà), Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền độc lập tự do trên sở những lẽ phải không ai

chối cãi được. Đó những giá trị văn hóa lịch sử về quyền con người, là những

nguyên phù hợp với công pháp quốc tế, đã được cả thế giới công nhận.

- Bác đã trích hai câu nói nổi tiếng trong bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ

1776 và bản tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp 179: “Tt c mọi người

sinh ra quyền bình đẳng. To hóa cho h nhng quyn không ai th xâm phm

được; trong nhng quyn y, quyền được sng, quyn t do mưu cầu hnh

phúc… Người ta sinh ra t do, bình đẳng v quyn li phi luôn luôn t do bình

đẳng v quyn li. Suy rng ra câu ấy nghĩa tất c các dân tc trên thế gii sinh

ra đều bình đẳng, dân tộc nào cũng quyền sng, quyền sung sướng quyn t

do”.

- Việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn của nước Pháp nước Mỹ như một mũi tên

trúng nhiều đích:

+Trước hết, với tầm nhìn xa trông rộng của một thiên tài quân sự, Hồ Chí Minh

thấy kẻ thù cụ thể trước mắt và lâu dài của dân tộc là thực dân Pháp, đằng sau là đế

quốc Mỹ. Việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn của tổ tiên người Pháp người Mỹ giống

như một hồi chuông cảnh báo: nếu chúng tiến quân xâm lược Việt Nam thì chính

chúng đã phản bội lại tổ tiên, làm vấy bẩn lên cờ nhân đạo thiêng liêng của những

cuộc Cách mạng đại được cả thế giới ngưỡng vọng. Thật thú vị thích đáng biết

bao với đòn “gậy ông đập lưng ông” của Bác. Nhà thơ Chế Lan Viên cho rằng:

nhng câu trích dn trên va qu táo đối vi chúng ta,va qu lựu đạn vi k thù

khiến cho chúng khc chng ra, nut chng vào.

nghĩa sâu sắc và danh thiếp trên lại ẩn với cách nói khéo léo, tỏ ra tôn trọng

những danh ngôn bất hủ của người Pháp người Mỹ. Từ đó, Hồ Chí Minh đã tranh

thủ được sự ủng hộ của luận tiến bộ tại hai nước Pháp Mỹ. Đúng lạt mềm

buộc chặt.

+ Bằng việc trích dẫn hai văn kiện lập quốc của người Mỹ người Pháp, hai bản

tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử nhân loại, bản Tuyên ngôn Độc lập đã nâng cao tầm

vóc văn hóa của người Việt Nam, sánh ngang một dân tộc với bề dày truyền thống

“vốn xưng nền văn hiến đã lâu” với ánh sáng của văn minh thế giới. Khi Hồ Chí Minh

đặt ngang hàng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với những nước trên thế giới, ta

lắng nghe trong lời Bác âm hưởng ngân vang tự hào trong tiếng nói của cha ông:

T Triệu Đinh Trần bao đời xây nền độc lp

Cùng Hán Đường Tng Nguyên mỗi bên xưng đế một phương

(Bình Ngô đại cáo Nguyn Trãi)

Hơn thế nữa, tác giả còn kín đáo thể hiện niềm tự hào dân tộc khi cách mạng Việt

Nam đã cùng một lúc thực hiện nhiệm vụ của cả hai cuộc cách mạng kia. Cuộc cách

mạng tháng Tám của ta đã cùng lúc giải quyết nhiệm vụ của hai cuộc cách mạng Mỹ

năm 1776 và Pháp năm 1791. Đó nhiệm vụ dân tộc khi dân ta đã đánh đổ các xing

xích thực dân để gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lp - đây cũng

yêu cầu đặt ra cho cuộc cách mạng nước Mỹ ( đấu tranh giải phóng các dân tộc

thuộc địa Bắc Mỹ ra khỏi ách thống trị của thực dân Anh). Cuộc cách mạng Tháng

Tám cũng giải quyết nhiệm vụ dân chủ dân ta lại đánh đổ chế độ quân ch mấy mươi

thế k lp nên chế độ dân ch cng hòa - đây cũng tinh thần bản của cuộc

cách mạng dân quyền nhân quyền của nước Pháp năm 1789.

-Nét sáng tạo mới mẻ trong ngòi bút chính luận của Hồ Chí Minh không chỉ

việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn còn mở rộng phát triển lên một tầm cao mới:

Li bt h y trong bản Tuyên ngôn độc lp của nước M suy rng ra y

nghĩa tất c các dân tc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng dân tộc nào cũng

quyn sng quyền sung sướng quyn t do. Từ quyền con người, Bác đã vận dụng

thiết thực sáng tạo và quyền độc lập dân tộc. Câu nói ấy không chỉ thức tỉnh trí tuệ

Việt Nam mà trí tuệ nhân loại của từng tỉnh. Hay nói như Giáo Nguyễn Đăng

Mạnh: phát súng lnh m đầu cho Bão Táp cách mng các nước thuộc địa s làm

sụp đổ ch nghĩa thực dân trên khp thế gii vào na sau thế k 19. Ý kiến suy rng ra

y một đóng góp cùng quan trọng của Hồ Chí Minh và phong trào giải phóng dân

tộc trên thế giới. Một nhà văn hóa nổi tiếng thế giới đã viết: Cng hiến ni tiếng ca

C H Chí Minh ch Người đã phát triển quyn của con người thành quyn li

ca dân tộc. Như vậy tt c mi dân tộc đều quyn t quyết ly vn mnh ca

mình”. Ý kiến suy rộng ra của Bác thể được xem là tiếng chuông khởi đầu cho thời

kỳ bão táp cách mạng ở các nước thuộc địa sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân trên khắp

thế giới vào những năm 60-70 của thế kỷ 20.

=>Như thế Bác đã dùng những lý lẽ của chính tổ tiên người Mỹ, người Pháp

đã ghi trong những bản tuyên ngôn được cả thế giới công nhận và từng làm vẻ vang

cho truyền thống, tưởng văn hóa của những dân tộc đó. Cách viết như thế vừa

khéo léo, vừa kiên quyết.

Tiu kết

Đoạn văn ngắn nhưng mở ra bao liên tưởng phong phú, nén chặt trong từng câu

từng chữ. Đoạn văn ngắn nhưng kết đọng và tỏa sáng tài năng trí tuệ sắc sảo

tưởng lớn lao của Hồ Chí Minh. Tư tưởng của Hồ Chí Minh đã vượt thời gian, không

gian hiện tại, bắt gặp và lắng đọng hồn thiêng sông núi, vượt phạm vi trong nước nhỏ

hẹp vươn lên tầm cao nhân loại. Đúng phải đọc Tuyên ngôn Độc lập giữa hai dòng

chữ thì mới thấm thía hết ý vị sâu xa. Những lí lẽ sắc sảo, chặt chẽ, hàm súc, thuyết

phục thể hiện qua một ngòi bút già dặn, cao tay của một nhà tưởng nhà văn hóa lớn

có tầm vóc nhân loại.

2. sở thc tin ca bn tuyên ngôn

a. V phía thc dân Pháp

- Hệ thống lập luận của bản tuyên ngôn không chỉ cht ch khi đặt sở pháp

còn rất toàn din khi đưa ra những sở thực tế, những bng chng sống”của

hiện thực lịch sử. Những lý lẽ của sự thật có sức tác động trực tiếp, lay động đến tâm

hồn người nghe, người đọc. Kẻ thù trước mắt đang lăm le quay trở lại xâm lược nước

ta với những chiêu bài khai hóa, bo hộ, nhân danh Đồng minh thì Hồ Chí Minh đã

đánh đòn phủ đầu trực diện đầu tiên tố cáo tội ác của chúng, lập lên bản cáo trạng

đanh thép, đập tan những luận điệu xảo trá để phủ nhận hoàn toàn quyền của chúng

Việt Nam. Với một bút lực dồi dào, với những lẽ sắc sảo như lưỡi dao sắc bén, Hồ

Chí Minh đã tạo nên một hệ thống luận cứ chặt chẽ, tiêu biểu, toàn diện bóc trần danh

nghĩa khai hóa, bo h thực dân Pháp đã rêu rao.

- Bắt đầu bằng hai tiếng thế mạch văn nay chuyển tự nhiên tác động tới nhận

thức mỗi người từ những nguyên cao đẹp vừa nêu trong hai bản tuyên ngôn đến

thực tế nước Việt Nam. Lập luận của Bác nhấn mạnh đến sự đối lập giữa lời nói

việc làm của thực dân pháp để chỉ ra bản chất xấu xa tàn bạo của chúng. Mọi phương

tiện của đời sống đều in dấu ấn tội ác của thực dân Pháp.

* Vch trn luận điệu v công lao khai hóa của Pháp đối với Đông Dương

Để vạch trần luận điệu về công lao khai hóa của Pháp đối với Đông Dương, Bác

đã nêu những hành động trái hn vi nhân đạo chính nghĩa của chúng trong

80 năm thống trị nước ta về hai phương diện: chính trị kinh tế thông qua những dẫn

chứn chọn lọc, đầy sức thuyết phục:

+V chính tr, Hồ Chí Minh đã tố cáo việc thực dân Pháp thi hành nhng lut

pháp man đối với đồng bào ta. Chúng thực hiện các chính sách chia để trị, chính

sách đàn áp, chính sách ngu dân, bóp nghẹt mọi quyền tự do dân chủ, đúng như nhà

thơ Tố Hữu cũng từng viết:

Giặc cướp hết non cao biển rộng

Cướp cả tên nòi giống tổ tiên lưỡi

Gươm cắt đất ngăn miền

Non sông một khúc ruột liền chia ba

(Ba mươi năm đời ta Đảng)

Hồ Chí Minh không chỉ liệt kê những tội ác chồng chất của thực dân Pháp

còn lay động trái tim, khối óc của người đọc, người nghe bằng cách viết giàu hình ảnh

và cảm xúc.

Bác so sánh: chúng lp ra nhà nhiều hơn trường hc nhằm nhấn mạnh

mục đích đàn áp của chúng hơn việc thực hiện chính sách văn khai hóa

văn minh.

Bác không viết chúng đàn áp các cuộc khởi nghĩa man sử dụng hình

ảnh n d chúng tm các cuc khởi nghĩa ca ta trong b máu hành động

đàn áp được thay bằng hình tượng tm”, mức độ man được hình tượng

hóa bằng “bể máu”. Cách viết hình tượng này vừa khắc họa bộ mặt quỷ dữ

khát máu của bọn thực dân xâm lược vừa nói lên hình ảnh thê thảm của

người dân lệ mất nước đang quằn quại trong bể đau thương.

Bác còn sử dụng hình ảnh hoán d chúng thng tay chém giết những người

yêu nước thương nòi của ta nhằm nhấn mạnh tới bản chất dã man tàn bạo

giết người không ghê tay của thực dân Pháp.

+ V kinh tế: Hồ Chí Minh đã phơi bày những chính sách tàn nhẫn của thực

dân Pháp: chính sách cướp phá, bóc lột, cấm vận, thuế khóa nặng nề…trên tất cả các

lĩnh vực: nông nghiệp, công nghiệp, tiền tệ, xuất nhập cảng, kinh doanh…

Điều đặc biệt là khi tố cáo tội ác của thực dân Pháp, Bác còn khéo léo lay thức

tinh thần dân tộc khi khẳng định những chính sách tàn bạo của chúng gây hậu quả tới

tất cả các giai tầng trong xã hội Việt Nam lúc đó: dân cày, dân buôn, công nhân,

sản. Chúng đã đẩy toàn dân ta vào tình cảnh khốn cùng:

Con đói lả ôm lưng mẹ khóc

M đợ con đấu thóc cầm hơi

Kiếp người cơm vãi cơm rơi

Biết đâu nghèo đất phương trời đi

(Tố Hữu)

Với bút pháp hiện thực sắc sảo, bản tuyên ngôn đã vẽ lên một thời đại đau

thương của dân tộc với gam màu xám lạnh trên nền máu nước mắt: kết qu cui

năm ngoái sang đầu năm nay, từ Qung Tr ti Bc K hơn hai triệu đồng bào ta b

chết đói. Như vậy nhân danh khai hóa nhưng thực chất thực dân Pháp đã khai t cho

cả một dân tộc, làm thui chột cả trí lực và sức lực của ta để dễ bề cai trị.

Ta lắng nghe xong lời Bác âm vang tiếng nói cha ông, tiếng nói tố cáo tội ác

trời không dung, đất không tha của kẻ thù khi chúng:

Nướng dân đen trên ngọn la hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hm tai v

( Nguyễn Trãi)

Hồ Chí Minh đã sử dụng dày đặc cá tính từ làm nổi bật tình cảnh thê thảm của

nhân dân ta dưới sự cai trị của thực dân Pháp: suy nhược, nghèo nàn, thiếu thn, bn

cùng, xác, tiêu điều... Ngôn ngữ của Bác ngắn gọn mà cùng chính xác, biểu cảm.

Chỉ cần bổ sung thêm một hai từ trong diễn đạt, Bác đã làm nổi bật sự man tàn bạo

của bọn Pháp bóc lột đến tận xương tủy, cướp không ruộng đất, trăm thứ thuế

”….Từng câu, từng chữ còn nhức nhối đến tận tâm can người đọc. Những câu văn

ngắn như dồn nén biết bao căm hận, ẩn đằng sau đó sôi trào máu nước mắt thấm

đầu ngọn bút. 14 câu văn mở đầu bằng từ chúng với những hành động tàn bạo thng

tay chém giết, tm nhng cuc khởi nghĩa của ta, bóc lột đến tận xương tủy …dội búa

tạ đến đầu nhân dân ta, nước nhà ca ta, nói ging ta, dân ta, công nhân ta. Giọng

văn đa thanh khi hùng hồn canh thép như lời tuyên án, lúc uất ức xót xa, gây xúc động

cho bao triệu trái tim Việt Nam và nhân dân thế giới. Đằng sau những trang văn day

dứt ấy là tâm hồn nhân đạo cao cả của Hồ Chí Minh

Người đã đói khỏi cơn đói ngày xưa

Người đã chết hai triu lẫn năm bốn lăm khủng khiếp

(Nhà thơ Cu Ba: A. Rô đơ – ri – ghết)

thể nói, chính cảm xúc mãnh liệt hòa quện với lí trí sắc sảo đã tạo nê sức

mạnh chiến đấu trong văn phong chính luận Hồ Chí Minh.

* Phơi bày luận điệu xo trá v “công lao bảo h Đông Dương” của Pháp

Để phơi bày luận điệu xảo trá về công lao bo h Đông Dương của Pháp, bản

tuyên ngôn đã chỉ đó không phải là công tội. Vì chúng chẳng những không

bảo hộ trong năm năm chúng đã bán đứng nước ta hai lần cho Nhật:

Mùa thu năm 1940 phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương Để m thêm

căn cứ đánh Đồng minh thì bn thc dân Pháp qu gối đầu hàng, m ca

nước ta rước Nht

Trước ngày ngày mùng 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới quân đội

Pháp, bn thc dân Pháp hoc b chy hoặc đầu hàng.

Những dẫn chứng đưa ra có ngày tháng cụ thể, giàu sức thuyết phục. Giọng

văn vừa hùng hồn vừa bi thiết lại được diễn đạt bằng hình ảnh nên sức truyền cảm

to lớn. Câu văn giàu hình ảnh đầy sức tố cáo, các chữ qu gối, rước, b chạy, đầu

hàng đã vẽ lên bộ mặt hèn nhát thế lệ của thực dân Pháp trước phát xít Nhật.

Nêu lên sự thật này trước công luận quốc tế tác giả một lần nữa phủ nhận quyền của

Pháp đối với Việt Nam khi lợi dụng danh nghĩa Đồng Minh.

* Bác b danh nghĩa “Đồng minh” của thc dân Pháp

Cuối cùng Hồ Chí Minh bác bỏ lời tuyên bố là: Đông Dương thuộc địa của

chúng với cách thành viên của Đồng minh, bản tuyên ngôn chỉ rõ: trước ngày

mùng 9 tháng 3 biết bao ln Việt Minh đã kêu gọi người khác liên minh để chng

Nht, bn thực dân Pháp đã không đáp ng li thng tay khng b Việt Minh hơn nữa.

Pháp không còn cách Đồng minh để trở lại đây nữa chúng đã không không

liên minh với Việt Minh chống phát xít Nhật,.

Thực dân Pháp khẳng định Việt Nam là thuộc địa của chúng bị Nhật chiếm, nay

Nhật đã đầu hàng đồng minh, Pháp đương nhiên quyền trở lại Đông Dương thay thế

quân đội Nhật thì bản Tuyên ngôn chỉ một cách đanh thép: S tht t mùa thu

1940, nước ta đã thành thuộc địa ca Nht ch không phi thuộc địa ca Pháp nữa…

S tht dân ta đã lấy lại nước Vit Nam t tay Nht ch không phi t tay Pháp.

Những sự thật lịch sử hiển nhiên được thể hiện trong cấu trúc điệp pháp làm tăng

thêm sự thuyết phục hùng hồn cho lí lẽ.

Dân ta đã giành độc lập từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp, giành bằng sự

nổi dậy của chính mình, giành độc lập khi Đồng minh chưa bén mảng đến đây. Luận

điểm này đứng về ý nghĩa pháp cùng quan trọng. sẽ dẫn đến lời tuyên bố

hùng hồn tiếp theo của bản tuyên ngôn: Bi thế, cho nên, chúng tôi, lâm thi chính

ph của nước Vit Nam mới, đại biu cho toàn dân Vit Nam, tuyên b thoát ly hn

quan h thc dân vi Pháp, xóa b hết nhng hiệp ước Pháp đã về Vit Nam,

xóa b tt c mọi đặc quyn của Pháp trên đất nước Vit Nam”.

b.V phía nhân dân Vit Nam

Để khẳng định trước công luận quốc tế nền độc lập tự do của dân tộc Việt

Nam. Tuyên ngôn Độc lập đã rất độc đáo khi tạo ra sự đối lập giữa thực dân Pháp

dân tộc ta. Nếu như khi Nhật đến, Pháp bộc lộ bản chất đê hèn qu gối đầu hàng m

cửa nước ta nước Nht; khi Nhật đảo chính Pháp b chy hoặc đầu hàng; nếu như

Pháp kẻ tàn bạo, nhân đạo thng tay khng b Vit Minh, đến khi thua chy

chúng còn nhn tâm giết nt s đăng từ chính tr Yên Bái Cao Bng thì nhân dân

ta lại vùng lên quật khởi , thậm chí còn nhân đạo với chính kẻ thù.

* Hồ Chí Minh đã khẳng định nhân dân Việt Nam có đầy đủ cách được

hưởng độc lập tự do:

- Dân tộc ta, nhân dân ta đã chiến đấu anh dũng đổ xương máu dành độc

lp t do dân ta đã đánh đổ các xing xích thc dân gần 100 năm nay để gây dng

nên nước Việt Nam độc lp. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân ch mấy mươi thế k

lp nên chế độ dân ch cộng hòa”. Cấu trúc điệp đã tạo dựng lên khí phách bản lĩnh

của một dân tộc qua trường kỳ lịch sử trước các thế lực hắc ám.

+ Trong khi thực dân Pháp phản bội Đồng minh thì nhân dân Việt Nam chứ

không phải ai khác đã đứng lên chống phát xít Nhật chiến đấu với cách Đồng minh

trước ngày mùng 9 tháng 3 biết bao ln Việt Minh đã kêu gọi người khác liên minh để

chng Nht; khi Nhật đầu hàng Đồng minh thì nhân dân c nước đã nổi dy giành

chính quyn lập nên nước Vit Nam Dân ch Cng hòa

- Trong khi Pháp th hin bn cht tàn bạo nhân đạo thì Vit Nam li

mt dân tc luôn gi được thái độ khoan hồng nhân đạo: sau cuc biến động

ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho người nhiều người khác chy qua biên thùy, li

cu cho nhiều người khác ra khi nhà ra Nht bo v tính mng tài sn cho h.

Khẳng định truyền thống đạo nhân nghĩa, Tuyên ngôn Độc lập đã phát huy tưởng

nhân văn được thể hiện trong Bình Ngô đại cáo:

Đem đại nghĩa để thng hung tàn

Lấy chí nhân để thay cường bo

(Nguyễn Trãi)

* Cuối cùng, Hồ Chí Minh khẳng định: một dân tộc đã chịu bao đau khổ dưới

ách thực dân tàn bạo, đã anh dũng chiến đấu cho độc lập tự do, đã đứng hẳn về phe

Đồng minh chống phát xít, đã nêu cao tinh thần bác ái như thế dân tộc đó phải được

t do”: “một dân tộc đã gan góc chống ách l của Pháp hơn 80 năm nay, một dân

tộc đã gan góc đứng v phe Đồng minh chng phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải

được t do! Dân tộc đó phải được độc lp!

* Không chỉ đòi quyền là bản tuyên ngôn đã chỉ ra một thực tế Việt Nam đã

giành được độc lập: nước Vit Nam quyền hưởng t do độc lp s thật đã trở

thành một nước t do độc lp. Toàn th dân tc Vit Nam quyết đem tất c tinh thn

lực lượng tính mng ca cải để gi vng quyn t do độc lp y.

3. Phn tuyên b

a. Tuyên b vi thc dân Pháp

Sau khi tạo dựng những sở luận và thực tiễn vững chắc, Hồ Chí Minh nói

lời tuyên bố độc lập. Phần kết thúc bản Tuyên ngôn lời khẳng định chủ quyền độc

lập chủ quyền của dân tộc Việt Nam trên sở công pháp quốc tế truyền thống yêu

nước bất khuất của nhân dân ta. Đối tượng đầu tiên cũng đối tượng số 1 của lời

tuyên bố chính thực dân Pháp - kẻ thù nguy hiểm nhất của nhân dân ta. Trước hết,

tác giả nhấn mạnh cách chủ nhân hợp pháp của nước Việt Nam độc lập chúng tôi

lâm thi chính ph của nước Vit Nam mới đại biu cho toàn dân Vit Nam. Lời tuyên

bố này được viết bằng giọng dứt khoát đanh thép tuyên b thoát li hn quan h thc

dân vi Pháp, xóa b hết nhng Hiệp ước Pháp đã về Vit Nam, xóa b tt c

mọi đặc quyn của Pháp trên đất nước Vit Nam. Tác giả đã sử dụng cấu trúc tăng

tiến thoát li hẳn …xóa bỏ hết… xóa bỏ tt cả… kết hợp với giọng văn đanh thép để

phủ nhận triệt để quyền thống trị của Pháp Đông Dương. Kết thúc lời tuyên bố vơi

thực dân Pháp lời cảnh cáo nhắc nhở chúng đừng tái chiếm Việt Nam lần nữa: Toàn

th dân tc Việt Nam trên dưới mt lòng kiên quyết chng lại âm mưu của bn thc

dân Pháp. Nghe âm vang trong lời Bác tiếng nói của cha ông:

C sao giặc sang xâm phm

Chúng bay s b đánh tơi bời

(Lí Thường Kiệt)

b.Tuyên b với phe Đồng minh

Khi tuyên bố với phe Đồng minh, Hồ Chí Minh lại dùng cách nói mềm mỏng

lịch sự ràng buộc chúng tôi tin rng các nước đồng minh đã công nhận nhng

nguyên tc dân tộc bình đẳng các hi ngh răng cựu Kim Sơn quyết

không th không công nhn nền độc lp ca dân Vit Nam. Nếu công ước công nhân

quốc tế đã thừa nhận quyền dân tộc tự quyết tại hai hội nghị - răng Cựu

Kim Sơn thì nhất định phải thừa nhận quyền độc lập của Việt Nam . Đây yêu cầu

nhân danh lễ phải, là tiếng nói đòi quyền sống đời quyền tự do của dân tộc có sức

mạnh chính nghĩa. Lí lẽ thiên về tình cảm thuyết phục chúng tôi tin rng với những lý

lẽ vừa có lý, vừa có tình, giọng văn nhẹ nhàng thể hiện thái độ tôn trọng nhưng không

kém phần kiên quyết.

c.Tuyên b vi thế gii

Tác phẩm kết thúc bằng lời tuyên bố chung với nhân dân thế giới, ngắn gọn

nhưng thể hiện được tất cả linh hồn của bản tuyên ngôn:

-Tuyên bố tuyên bố sự ra đời của nước Việt Nam độc lập và quyết tâm của

nhân dân Việt Nam sẵn sàng hi sinh tất cả để giữ vững nền độc lập. Đoạn văn sức

nặng của những sở luận và thực tiễn mà tác giả đã dày công tạo dựng trong các

phần trên: “Nước Vit Nam quyn t do độc lp s thật đã trở thành mt

nước t do độc lp “, bởi lẽ đó quyền của mọi dân tộc trên thế giới, là kết quả tất

yếu của cuộc đấu tranh bền bỉ phi thường của nhân dân Việt Nam.

- Cuối cùng, thay mặt hơn 20 triệu đồng bào, Hồ Chí Minh đã cất lên lời thề

thiêng liêng sắt đá: Toàn th dân tc Vit Nam quyết đem tất c tinh thn lực lượng

tính mng ca cải để gi vng quyn t do độc lp y. Tác giả đã sử dụng những

từ ngữ sóng đôi theo lối tăng tiến tạo ra giọng văn nhịp nhàng, đanh thép. Qua đó, thể

hiện tầm vóc tưởng của nhà chiến đại Hồ Chí Minh và truyền thống của một

dân tộc bất khuất, yêu tự do chưa bao giờ cúi đầu trước kẻ thù. Đó cũng sự cảm của

một nhà chính trị thiên tài về con đường đầy gian khổ khi sinh mà nhân dân đất nước

ta sẽ phải trải qua. Nêu cao nguyện vọng độc lập dân tộc, khẳng định truyền thống yêu

nước bất khuất, Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh đã tiếp nối và phát huy chủ

nghĩa yêu nước và anh hùng trong các áng thiên cổ hùng văn. Từ Nam quốc sơn của

Thường Kiệt đến Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi đến Tuyên ngôn Độc lập của

Hồ Chí Minh là những chặng đường khác nhau của một chân “không bao giờ quý

hơn độc lập tự do”. Phần kết của bản tuyên ngôn lời hiệu triệu sức mạnh đoàn kết,

thể hiện khí phách bản lĩnh của dân tộc Việt Nam được hun đúc kế thừa suốt

4000 năm lịch sử, khép lại một trang sử hào hùng mở ra một giai đoạn mới một

cuộc kháng chiến đại bảo vệ độc lập tự do.

KT LUN

Tuyên ngôn Độc lập kết tinh tầm vóc tưởng, tình cảm, trí tuệ của một nhà

chính trị, nhà ái quốc đại tài năng của một cây bút chính luận kiệt xuất. Về

tưởng, tác phẩm đóng góp đáng kể trong phong trào đấu tranh độc lập của các dân

tộc bị áp bức đô hộ. Người đã tổng kết được một cách giản dị xúc tích những kinh

nghiệm đấu tranh của nhiều thế kỷ giành độc lập dân tộc, dân quyền, nhân quyền của

dân tộc ta và nhân loại.

Trời bng xanh nng chói lòa

Ta nhìn lên Bác, Bác nhìn ta

Bốn phương chắc cũng nhìn ta đó

Nước Vit nam dân ch cộng hòa”

(Theo chân Bác H Chí Minh)

Về nghệ thuật, Tuyên ngôn Độc lập tiêu biểu cho phong cách chính luận của Hồ

Chí Minh. Lí lẽ sắc bén, lập luận chặt chẽ đanh thép, giọng thanh truyền cảm linh hoạt,

ngôn ngữ phong phú, gợi cảm. Tuyên ngôn Độc lập xứng đáng áng thiên cổ hùng

văn của dân tộc ta trên mọi nẻo đường chiến đấu và chiến thắng.

Bài viết gợi ý: