Để làm nổi bật vẻ đẹp độc đáo của hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến, khi chọn dẫn chứng, người viết cần chú ý: những nét tả người và tả cảnh không tách rời nhau. Nói cảnh là để nói người, cảnh có nhiều nét đối cực chính là cái nền làm nổi bật những nét đối cực vốn có trong tâm hồn và tính cách người lính Tây Tiến. Có thể nhận thấy rõ những đặc điểm nổi bật của người lính Tây Tiến trong bài thơ là can trường, mạnh mẽ và lãng mạn, hào hoa. Tuy nhiên, những đặc điểm (cũng là những phẩm chất) này không tồn tại tách rời nhau. Một chi tiết, một hình ảnh hoàn toàn có thể được khai thác từ những góc độ khác nhau để làm nổi bật những đặc điểm tưởng như đối lập nhau đó. Cần tránh cách phân tích chỉ nhìn ra những đặc điểm xã hội học của đối tượng mà quên mất chủ thể trữ tình. Không có cách nhìn riêng, không có ngôn ngữ thể hiện riêng của Quang Dũng, sự độc đáo mang tính khách quan, vốn có của đối tượng miêu tả sẽ không có cơ hội làm nên sự độc đáo của hình tưọng như ta đã thấy trong bài thơ.
Bài viết có thể triển khai các ý chính sau:
– Trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam có nhiều tác phẩm xuất sắc ca ngợi hình ảnh đẹp đẽ của “anh bộ đội Cụ Hồ”. Cùng với những bài thơ nổi tiếng được sáng tác trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp như Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên, Cá nước của Tố Hữu, Tây Tiến của Quang Dũng đã sớm tạo dựng được một bức chân dung sinh động về những người lính “vì nhân dân quên mình”.
– Hình ảnh người lính được khắc hoạ trong bài thơ Tây Tiến có hai đặc điểm nổi bật: can trường, mạnh mẽ và lãng mạn, hào hoa. Hai đặc điểm (hay là hai nét tính cách này) quyện chặt vào nhau không thể tách rời. Sự can trường được biểu lộ một phần qua tinh thần lãng mạn và ngược lại, tinh thần lãng mạn có một số mặt đã nằm ngay trong phẩm chất can trường, ngang tàng ấy. Sự dung họp đẹp đẽ giữa hai nét đối cực này chưa hẳn đã là một hiện tượng phổ quát. Trong các bài thơ đã nêu trên của Chính Hữu, Hồng Nguyên, Tố Hữu, hình ảnh người lính thường hiện lên với vẻ đẹp chân chất, bình dị và cái quyết liệt, hăng hái của họ củng có những nét khác. Điều này cũng dễ hiểu vì người lính được “miêu tả” trong đó là những người lính nông dân xuất thân từ nơi nước mặn đồng chua, nơi những làng quê nghèo đất cày lên sói đá. Trong khi đó, các "nhân vật” của Quang Dũng lại có gốc gác thị thành và nhiều người trong số họ là học sinh, trí thức. Hiển nhiên các chàng trai Hà Nội thanh lịch, hào hoa này có cách cảm thụ và trải nghiệm riêng đối với cuộc đời kháng chiến. Đây là cơ sở đầu tiên khiến cho hình ảnh họ trong thơ Quang Dũng có một vẻ đẹp riêng, độc đáo.
– Đã nói đến người lính cách mạng, không thể không nói tới tinh thần quá cảm sẵn sàng vượt qua mọi gian lao của họ. Để thể hiện điều đó, bằng sức mạnh của sự hồi tưởng, bằng bút pháp miêu tả gân guốc và phóng túng, Quang Dũng đã tái hiện rất sinh động trong Tây Tiến một hoàn cảnh đầy thử thách. Trên con đường hành quân về miền tây Tổ quốc, các chiến sĩ Tây Tiến đã phải chấp nhận sự thách thức của những đèo cao, vực sâu cực kì hiểm trở. Dốc rồi lại dốc, gập ghềnh, khúc khuỷu, chừng như muốn dẫn người ta lên tới tận đỉnh trời. Có những lúc đoàn quân đi trong sương núi mịt mùng bủa vây tứ phía. Người càng mỏi mệt, núi rừng càng diễu võ giương oai, càng mượn lời thác gào lên những tiếng man dại giữa đại ngàn. Đó là chưa kể sự rình rập của thú dữ đêm đêm. Đi vào nơi lam sơn chướng khí, những người lính chưa quen phong thổ phải đối diện hằng ngày với hiểm hoạ ghê sợ của sốt rét, dịch bệnh khiến cho tóc không mọc nổi, da tái xanh, “đánh trận tử vong ít, sốt rét tử vong nhiều” (Trần Lê Văn). Nhấn mạnh sự khắc nghiệt của hoàn cảnh chính là một cách Quang Dũng gián tiếp làm nổi bật sự quyết chí của các chiến sĩ. Các câu thơ như: Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm / Heo hút cồn mây súng ngửi trời đâu phải chỉ đơn thuần tả dốc. Sự thực nó đang tả người vượt dốc và âm điệu trúc trắc,“khổ độc” của các câu thơ như muốn mô phỏng hơi thở nặng nhọc của những người lính. Tất nhiên, trong bài thơ cũng có những câu trực tiếp tả người. Đó là những câu thơ nói về một cách chết, một kiểu chết thường gặp: Anh bạn dãi dầu không bước nữa / Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Thoạt đọc qua, ta ngỡ câu thơ chỉ bộc lộ cảm xúc về sự mất mát, nhưng ngẫm nghĩ kĩ, ta hiểu ra trong ấy chứa đựng nét miêu tả về một tư thế hi sinh. Gian lao không làm các chiến sĩ sờn lòng. Nếu có chết, họ cũng chỉ chịu chết trong tư thế đi lên, giữa lúc đang làm nhiệm vụ. Người lính đi vào cái chết như đi vào một giấc ngủ bỏ quên đời rất thanh thản. Họ quả là những người Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây, họ đã thực hiện chí làm trai của mình một cách hết sức trọn vẹn, thậm chí mang màu sắc lãng mạn nữa.
– Cũng thật lạ lùng, Tầy Tiến nhiều lần nói đến cái chết mà khí lực của bài thơ vẫn rất mạnh mẽ. Phải chăng điều này có nguyên nhân ở tinh thần “dám chết” của các chiến sĩ? Hành quân vào miền đất dữ, họ quá biết những hiểm nguy đang chờ đón. Với ai đó, những nấm mồ viễn xứ nằm rải rác biên cưong có thể đưa lại một ám ảnh ghê sợ, nhưng với người lính Tây Tiến thì không. Thuở ra đi họ đã “hẹn ước”: Đường lên thăm thẳm một chia phôi (cũng có nghĩa là Chí nhớn chưa về bàn-tay không – Thâm Tâm), bởi thế, họ sẵn sàng chấp nhận hi sinh không điều kiện, không tính toán. Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh là một tâm niệm – cái tâm niệm của kẻ làm chủ được mình, tự ý thức được sâu sắc hành động của mình. Can đảm mà chẳng hề mù quáng – đó là một phẩm chất rất đẹp của người chiến sĩ Tây Tiến nói riêng và của người chiến sĩ cách mạng nói chung.
– Khó mà tách riêng ra đâu là nét can trường và đâu là nét lãng mạn, hào hoa trong một con người thống nhất. Sự can trường đã nhuốm vẻ lãng mạn của người lính Tây Tiến một phần do nó được cảm nhận bằng hồn thơ rất mực tài hoa, khoáng đạt, trẻ trung. Rất nhiều chi tiết miêu tả đặc sắc trong bài thơ cùng một lúc làm phát lộ hai phẩm chất nói trên của các chiến sĩ. Phải rất giàu dũng khí cũng như rất giàu “hồn thơ”, người lính Tây Tiến mới rung động được đến mức cực điểm với vẻ đẹp nguyên sơ, hùng vĩ của núi rừng như thế này: Chiều chiều oai linh thác gầm thét / Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người. Có những lúc người lính Tây Tiến thả hồn bay lên với cảnh trí tuyệt vời thơ mộng của thiên nhiên. Ta hiểu lúc đó họ đã chế ngự được hoàn cảnh khắc nghiệt để thưởng thức những vẻ đẹp hiếm thấy trong đời: Người đi Châu Mộc chiều sương ấy / Có thấy hồn lau nẻo bến bờ / Có nhớ dáng người trên độc mộc / Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa. Có thể nói, trong mỗi người lính Tây Tiến có tồn tại một con người nghệ sĩ. Chẳng hề ngẫu nhiên khi ta thấy xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm các chi tiết nói về “hoa", về “nhạc”, về "thơ” – những “vật liệu” hết sức cần thiết cho việc tô đậm phẩm chất lãng mạn trong tâm hồn người chiến sĩ. Các anh đã chiến thắng hoàn cảnh đến hai lần khi trong những ngày gian khó vẫn tổ chức nhiều đêm lửa trại tưng bừng, náo nhiệt. Trong những đêm đó, nét đa tình, hào hoa của các chàng trai Hà Nội càng được bộc lộ rõ hon bao giờ hết. Họ đã reo lên sung sướng, ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một dáng hồng sơn cước và nghiêng ngả vui hết mình trong tiếng khèn, tiếng nhạc dặt dìu: Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa / Kìa em xiêm áo tự bao giờ/Khèn lên man điệu nàng e ấp / Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
– Ốm đau, bệnh tật đã khiến cho người lính Tây Tiến có một vẻ ngoài thật kì dị. Đôi lần họ mượn ngay sự kì dị đó để tạo cho mình một dáng dấp oai dữ rất riêng. Nhưng điều đáng nói ở đây là chất mộng mơ, đa cảm chưa một lần bị biến dạng. Nó vẫn tồn tại như để nuôi giữ chất người đẹp đẽ ở các anh. Dáng kiều thơm nơi đô thành trong giấc mộng của người chiến sĩ không nói về một trạng thái tinh thần “ốm yếu”, mà ngược lại, cho ta hiểu thêm về bản lĩnh sống của các anh – những người không chịu đánh mất mình dù gặp phải hoàn cảnh khốc liệt như thế nào.
– Rung động trước vẻ đẹp của hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến thực chất là một rung động thơ. Dĩ nhiên, anh bộ đội Tây Tiến ngoài đời rất gan dạ, rất hào hoa, nhưng phải nhờ “ngôn ngữ thơ” của Quang Dũng, hai phẩm chất kia mới nổi bật lên và gây được ấn tượng sâu sắc cho người đọc đến như thế. Tạo dựng một bức tranh thiên nhiên vừa hùng vĩ, dữ dội, vừa thơ mộng, trữ tình, tác giả đã thực sự làm một phép chiếu ứng nhằm phơi mở toàn bộ vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ. Còn khi nhà thơ sử dụng những cách nói tếu táo rất lính như súng ngửi trời, cọp trêu người, không mọc tóc… trong “kể việc” thì người đọc bỗng nhiên hình dung được rất rõ dáng vẻ ngang tàng, đầy khí phách của các chàng trai Tây Tiến đang vượt lên cười cọt với gian nan. Sử dụng một hệ từ vựng riêng khi nói về cái chết với những từ ngữ không bước nữa, bỏ quên đời, về đất, tác giả càng giúp ta thấu rõ tinh thần trượng phu của người lính chiến – rất anh hùng, rất lãng mạn khi coi cái chết “nhẹ tựa lông hồng”.
– Bài thơ Tây Tiến là nơi lưu giữ những kỉ niệm về một thời kháng chiến. Đi vào bài thơ, ta nghiêng mình trước vẻ đẹp can trường, mạnh mẽ và lãng mạn, tài hoa của các chiến sĩ, đồng thời ta cũng nghiêng mình trước thơ, trước tâm hồn lớn lao, phong phú của chính người thơ Quang Dũng. Độc giả khó ngăn nổi cảm giác thèm được thấy lại một thời thơ mà lúc đó người ta làm thơ như đã sống và thực sự đã sống đẹp như một bài thơ.