VẺ ĐẸP TÂM HỒN NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG TÌNH YÊU QUA BÀI THƠ SÓNG
XUÂN QUỲNH
* Câu 1: Phân tích hìn h tượng sóng trong bài thơ
"Sóng" của Xuân Quỳnh. Nêu cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu qua hình
tượng này.
* Câu 2 : Phân tích bài thơ "Sóng" của Xuân Quỳnh
+ (Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ
"Sóng" của Xuân Quỳnh. Nêu cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu qua hình tượng
này.)
*Câu 3 : Phân tích, bình giảng đoạn thơ sau:
“ Con sóng dưới
lòng sâu
…………………………
Hướng về anh- một
phương”
*Câu 4: Cảm nhận của anh (chị) về vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ
trong bài thơ "Sóng" của Xuân
Quỳnh .
*Câu 5:
Nêu cảm nhận của
Anh/Chị về hai đoạn thơ sau:
“Nhớ gì
như nhớ người yêu
Trăng
lên đầu núi, nắng chiều lưng nương Nhớ từng
bản khói cùng sương
Sớm
khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng
rừng nứa bờ tre
Ngòi
Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi,
ta nhớ những ngày
Mình
đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...”
(Việt Bắc - Tố Hữu)
“ .....Con sóng dưới lòng sâu
Con
sóng trên mặt nước
Ôi con
sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Ngày
đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả
trong mơ còn thức “
( SÓNG )XUÂN QUỲNH
HƯỚNG DẪN BÀI LÀM
Câu 1
Giới thiệu tác giả,
tác phẩm
a - Xuân Quỳnh (1942
- 1988) là một nhà thơ nữ xuất sắc của Văn học Việt Nam hiện đại.
Thơ Xuân Quỳnh thể hiện
một trái tim hồn hậu, chân thành, khao khát tình yêu, biết nâng niu hạnh
phúc đời thường bình dị.
b - "Sóng"
(In trong tập "Hoa dọc chiến hào") được sáng tác năm 1967, tiêu biểu
nhiều mặt cho hồn
thơ Xuân Quỳnh
Phân tích hình tượng
Sóng
a - "Sóng"
là hình tượng trung tâm của bài thơ và là một hình tượng ẩn dụ. Cùng với hình
tượng "em" (hai hình tượng này
song hành suốt tác phẩm), "Sóng" thể hiện những trạng thái, quy luật
riêng của
tình yêu cùng vẻ đẹp
tâm hồn người phụ nữ rất truyền thống mà rất hiện đại.
b- "Sóng"
có nhiều đối cực như tình yêu có nhiều cung bậc trạng thái và như tâm hồn người
phụ nữ
có những mặt tưởng
như mâu thuẫn mà rất thống nhất (Phân tích hai câu đầu với kết cấu đối lập -
song hành và việc đặt các từ "dịu
êm", "lặng lẽ" ở cuối câu tạo điểm nhấn).
c - Hành trình của
"Sóng" tìm tới biển khơi như hành trình của tình yêu hướng về cái vô
biên, tuyệt
đỉnh, như tâm hồn người phụ nữ không chấp nhận
sự chật hẹp, tù túng (phân tích hai câu thơ sau của khổ 1 với kiểu nói nhấn mạnh như "Không hiểu nổi",
"tìm ra tận"...)
d - Điểm khởi đầu bí ẩn
của "Sóng"giống điểm khởi đầu và sự mầu nhiệm, khó nắm bắt của tình
yêu
(Phân tích các Khổ 3,
4 của bài thơ với điệp từ "nghĩ" và sự xuất hiện của nhiều câu hỏi...)
e - Sóng luôn vận động
như tình yêu gắn liền với những khát khao trăn trở không yên, như người
phụ nữ khi yêu luôn
da diết nhớ nhung, cồn cào ước vọng về một tình yêu vững bền, chung thuỷ (phân
tích các Khổ 5, 6, 7, 8 của bài thơ với
sử dụng điệp từ, điệp ngữ, điệp cú pháp, với hiệu quả của hình thức: trên
- dưới, thức - ngủ, bắc - nam, xuôi -
ngược..., với kiểu giải bày tình cảm bộc trực như "lòng em nhớ đến
anh/ cả trong mơ còn thức...)
h - "Sóng"
là hiện tượng thiên nhiên vĩnh cửu như tình yêu là khát vọng muôn đời của con
người,
trước hết là người phụ nữ (nhân vật trữ tình)
muốn dâng hiến cả cuộc đời cho một tình yêu đích thực (Phân
tích Khổ cuối của bài
thơ với ý nghĩ và cách nói rất táo bạo của người con gái hiện đại: "Làm
sao được tan ra...)
Nêu cảm nhận về vẻ đẹp
tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu qua hình tượng Sóng
a - Trước hết, hình
tượng Sóng cho ta thấy được những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ
trong tình yêu: thật đằm thắm, dịu dàng,
thật hồn hậu dễ thương, thật chung thuỷ.
b - Hình tượng Sóng
cũng thể hiện được nét đẹp hiện đại của người phụ nữ trong tình yêu: táo bạo,
mãnh liệt, dám chủ động
đến với tình yêu, dám vượt qua mọi trở ngại để giữ gìn hạnh phúc, dù có phấp phỏng trước cái vô tận của thời gian, nhưng vẫn
tin vào sức mạnh của tình yêu.
KẾT LUẬN
a - "Sóng"
là bài thơ tình thuộc loại hay nhất của Xuân Quỳnh nói riêng và thơ Việt Nam hiện
đại nói chung.
b - Riêng việc sử dụng
hình tượng "Sóng" làm ẩn dụ thì không mới, nhưng tâm sự về tình yêu
cùng
cách khai thác sức chứa
ẩn dụ này lại có những nét thực sự mới mẻ. Xuân Quỳnh quả đã tìm được một
hình tượng thơ đẹp đẽ, độc đáo để giải
bày tình yêu dịu dàng mà mãnh liệt, gần gũi, riêng tư mà rộng mở, phóng khoáng của người phụ nữ.
Câu 2 :
MỞ BÀI:
Tình yêu là một tình
cảm thiêng liêng cao cả và huyền diệu nhất của con người, nhất là tình yêu ở
trái tim người phụ nữ.
Bằng hình tượng độc đáo, nhịp thơ, ngôn ngữ thơ đặc sắc, nữ thi sĩ Xuân Quỳnh
đã diễn tả được một cách tinh tế và
duyên dáng tâm hồn của người phụ nữ đang yêu qua bài thơ “Sóng”, một trong những đỉnh cao trong sự ngiệp sáng tác
của Xuân Quỳnh. Bài thơ ra đời năm 1967, in trong tập “Hoa dọc chiến hào” (1968).
THÂN BÀI:
Vài nét về thi sĩ
Xuân Quỳnh.
Xuân Quỳnh (1942 –
1988) - một trong những gương mặt tiêu biểu cho các nhà thơ nữ thời chống Mĩ. Con đường thơ của chị gần một phần tư thế
kỉ, khá phong phú về số lượng và tươi rói chất hiện thực đời sống. Thơ chị thấm đượm tình người và thể hiện
một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân thành nhiều lo âu và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời
thường.
“Sóng” để chỉ tình
yêu trong thơ.
Xưa nay, để diễn tả
tâm trạng, cảm xúc, tâm hồn đến độ mãnh liệt,từ thơ ca dân gian đến thơ ca hiện
đại, các thi sĩ đã có
dùng hình tượng “sóng” để biểu tượng cho tình yêu. Nữ thi sĩ Kim Chi trong bài
“Anh và biển ” cũng đã viết:
“Tình yêu là sóng biển
sâu
Nghìn năm vỗ đến bạc
đầu biển ơi!”
Còn Xuân Diệu cũng đã
từng hóa thân mình làm “sóng” để bày tỏ khát vọng tình yêu: “Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em”
Hình tượng “sóng”
trong bài thơ của Xuân Quỳnh.
Nhưng hình tượng
“sóng” trong bài thơ Xuân Quỳnh có nét đặc sắc, mới mẻ riêng. Đó là một
sáng tạo độc đáo làm nổi rõ sức sống và
vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam trong tình yêu. “Sóng” là
nhan đề của bài thơ
và cũng là hình tượng chủ đạo xuyên suốt cả bài. Đó là một hình tượng ẩn dụ
mang tính chất biểu tượng, biểu tượng
cho trái tim người phụ nữ đang yêu. Gắn liền với hình tượng “sóng” là hình
tượng nhân vật trữ tình “em”. “Sóng” chính là
sự hoá thân của “em”. “Sóng” và “em” tuy hai mà một. Cho nên, nhờ hình
tượng “sóng” này mà người phụ nữ trong bài thơ có thể
soi vào “sóng” để thấy rõ tâm hồn
mình và nhờ “sóng” mà
diễn tả những đợt sóng lòng, những trạng thái phong phú, phức tạp của tình
yêu. Hình tượng “sóng” ấy còn được thể
hiện bằng hàng loạt chi tiết cụ thể như bằng thể thơ, bằng nhịp điệu bài
thơ. Đó là một âm điệu nhịp nhàng, dào dạt như
những đợt sóng gối lên nhau lúc dâng trào sôi nổi, dữ dội, lúc lắng dịu thiết tha. Âm điệu ấy cũng chính
là nhịp điệu bên trong của tâm hồn nhân vật trữ tình - một tâm hồn của tình yêu muôn thuở có bao giờ đứng
yên. Như vậy, mượn hình tượng “sóng” ấy để bày tỏ tình yêu,
Xuân Quỳnh đã có một
hình tượng thơ thật độc đáo, rất thích hợp và đẹp đẽ để nói một cách thật đầy đủ, thấm
thía những khát vọng thiết
tha mà thầm kín của trái tim mình. Thế là sóng
nước, sóng biển đã biến
thành sóng tình. Hai
con sóng ấy hoà quyện vào nhau, soi tỏ và bổ sung cho nhau. Những cung bậc
phong
phú, đa dạng của “sóng" cũng chính là những
phương diện tương ứng của tâm hồn nhân vật trữ tình “em”. Vì vậy, phân tích “sóng” cũng chính là phân
tích tâm hồn khát khao tình yêu, hạnh phúc đầy nữ tính đó.
“Sóng” đã biểu hiện
được các trạng thái đa dạng của tâm hồn người phụ nữ đang yêu.
1. Mở đầu “sóng” tự bộc
bạch những thuộc tính, phẩm chất, trạng thái thật phong phú, đa dạng, phức tạp, khác thường của mình; thậm chí là trái
ngược, đối lập nhau, song lại rất thống nhất ở một trái tim đang
yêu nồng nàn, đắm
say, mãnh liệt cứ nối tiếp nhau, chuyển hoá đắp đổi cho nhau thật là thi vị và
hấp dẫn. Vì vậy giữa các trạng thái đối
lập ấy, tác giả đã đặt một liên từ "và" rất tinh tế, chứ không phải
liên từ "mà",
một liên từ thuần tuý
biểu thị quan hệ đối lập, trái ngược. Đúng như thế, khi gió to bão lớn thì sóng
có thể cồn lên ồn ào, dữ dội, có thể xô
lật thuyền. Nhưng khi trời yên gió lặng, thì biển sóng lại lặng lẽ, dịu
êm. Đó
cũng là những trạng
thái không bao giờ yên định của tâm hồn người phụ nữ đang yêu: dữ dội đấy, rồi
lại dịu êm đấy:
“Những đêm trăng hiền
từ Biển như cô gái nhỏ
Thầm thì gửi tâm
tư Quanh mạn thuyền sóng vỗ
Cũng có khi vô cớ Biển ào ạt xô thuyền
Vì tình yêu muôn thuở Có bao giờ đứng yên”
(Xuân Quỳnh)
Hai câu thơ mở đầu có
kết cấu vừa đối lập vừa song hành. Và việc đặt các tính từ chỉ trạng thái,
phẩm chất: "dịu
êm", "lặng lẽ" ở cuối câu đã tạo ra được một điểm nhấn. Thì ra
tâm hồn người phụ nữ khi yêu có thể có
những biểu hiện rất đa dạng, muôn mầu, nhưng nét phẩm chất cơ bản như là
"trọng tâm" muôn thuở của trái
tim họ vẫn là dịu dàng, đôn hậu, vị tha rất dễ thương. Cái nét phẩm chất dịu
dàng ấy đã làm nên "cái Nết"
(Cái nết đánh chết cái đẹp), cái "Duyên" nghìn đời nay của người phụ
nữ Việt Nam. Chả thế mà trong ca dao xưa
đã có một chàng trai nào đó có một ước muốn thật ngộ nghĩnh mà rất thơ mộng:
"Có ai bán cái dịu
dàng
Tôi mua một gánh tặng
nàng làm duyên"
Qủa là “sóng” rất lạ
và bí ẩn, nhưng bí ẩn và quan trọng hơn nữa là “sóng” mang trong mình nó khát
vọng về sự lớn lao. Nếu
một khi “sông không hiểu nổi mình”, thì “sóng” dứt khoát “tìm ra tận bể”, dứt khoát từ giã khuôn khổ chật hẹp để tìm đến
chân trời cao rộng của tâm hồn. Cách nói nhấn mạnh như "không hiểu nổi", "tìm ra tận
bể" đã diễn tả được tâm trạng đầy suy tư, trăn trở của một tâm hồn rất tự
tin và rốt ráo, quyết liệt, triệt để
trong hành trình tìm kiếm không gian trời bể tương xứng với khát vọng đẹp đẽ của mình.
Ra tận nơi mênh mông,
cao rộng trời nước bao la, nhiều sóng ngầm mà cũng nhiều bão tố của đại dương, con sóng mới thực sự tìm thấy mình, nhận
thức được sức mạnh và mọi khát khao của nó. Nhiều khi không tìm được đường đi, “sóng” ngậm ngùi,
chua chát:
“Làm gì có biển mà đi
Sóng đành chua chát
thầm thì cùng sông”
(Lâm Thị Mỹ Dạ)
Ở hai câu thơ này, để
khẳng định thêm ý tưởng về khát vọng của người phụ nữ, Xuân Quỳnh dùng
kiểu nói nhấn mạnh:"Không
hiểu nổi...Tìm ra tận"
2. “Sóng” là vĩnh hằng
với thời gian. “Sóng” ngoài biển cả vỗ suốt ngày đêm không ngừng không nghỉ. Từ những “con sóng ngày xưa” đến những
con “sóng” ngàn năm sau cũng vậy, không bao giờ chịu đứng yên cũng như nỗi khát khao tình yêu ngàn
đời cùa nhân loại thật mãnh liệt không giới hạn, cứ xôn xao, rạo rực trong trái tim của muôn đời tuổi trẻ:
“Ôi con sóng ngày
xưa Và ngày sau cũng thế Nỗi khát vọng tình yêu Bôi hồi trong ngực trẻ”
Nhà thơ Xuân Diệu
cũng đã khái quát cái quy luật ấy:
“Hãy để cho trẻ con
nói cái ngon của kẹo Hãy để tuổi trẻ nói
hộ tình yêu”
3 Tình yêu đối với tuổi
trẻ tự nhiên như hơi thở, khí trời. Nhưng đứng trước một trái tim rạo rực, xốn xang vì đang yêu, người ta thường có nhu
cầu “cắt nghĩa” cái quy luật rất tự nhiên nhưng cũng đầy bí ẩn ấy. Nhưng làm sao có thể giải đáp được một
cách rõ ràng câu hỏi về một cái thời điểm bắt đầu của một tình yêu:
“Tình yêu đến tình
yêu đi ai biết được”
Hay:
“Làm sao cắt nghĩa được
tình yêu Có nghĩa gì đâu một buổi chiều Nó chiếm lòng ta bằng nắng nhạt Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu”
(Xuân Diệu)
Trước đây, Xuân Diệu
– ông hoàng của tình yêu, đã từng băn khoăn như vậy; còn giờ đây, Xuân Quỳnh đã giải thích điều đó bằng trực cảm, bằng
tất cả lòng mình như một lời thú nhận thành thực, hồn
nhiên, ý nhị mà sâu sắc:
tình yêu như sóng biển, như gió trời vậy thôi, làm sao hiểu hết được: “Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau”
Thật là một cái lắc đầu
rất thiếu nữ, mà cũng thật dễ thương. Nhà thơ Nguyễn Đình Thư, một thi sĩ
của dòng thơ ca lãng
mạn 30 – 45 cũng đã có ý thơ tương tự:
“Huống hồ yêu tự khi nào
Hôm qua lòng thấy ngọt
ngào mới hay”
Và nữ thi sĩ Đoàn Lê
cũng viết về ý thơ này:
“Tình yêu như hương
nhẹ Đến lúc nào không hay Hoa tình yêu chợt nở Hương tình yêu say say”
Để nhấn mạnh cái quy
luật đặc sắc nói trên của tình yêu và sự băn khoăn day dứt của trái tim người phụ nữ trước cái bí ẩn của thứ tình cảm diệu
kì ấy, ở hai khổ thơ này, Xuân Quỳnh đã sử dụng nhiều điệp từ
”nghĩ" và nhiều câu hỏi.
Tình yêu luôn đồng hành với nỗi nhớ. Càng yêu
nồng nàn, đắm say, thì càng nhớ da diết cháy
bỏng. Đó là hai mặt của
tình yêu. Vì thế, “tương tư” là căn bệnh phổ biến của tất cả những người đang
yêu. Nguyễn Bính, một thi sĩ nổi tiếng
đa tình cũng đã từng viết:
“Nắng mưa là bệnh của
giời,
Tương tư là bệnh của
tôi yêu nàng.”
Và Xuân Diệu, “người
uống ái tình dập cả môi”, cũng đã viết:
“Uống xong lại khát là tình
Gặp rồi lại nhớ là
mình với ta”
Trong bài thơ này, nỗi
nhớ niềm thương của người đang yêu được Xuân Quỳnh diễn tả thật cảm
động và đầy nghệ thuật. Nỗi nhớ như bao trùm cả
không gian bao la. Nó chiếm cả tầng sâu, bề mặt của tâm hồn. Và nó khắc khoải da diết trong mọi thời
gian:
“Con sóng dưới lòng
sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
“Con sóng dưới lòng
sâu;con sóng trên mặt nước” là những cung bậc, những biểu hiện phong phú đa dạng
nỗi nhớ của “em”.
“Sóng trên mặt nước” là biểu hiện nỗi nhớ khi thương. Còn “sóng dưới lòng sâu”
là nỗi nhớ âm thầm lắng sâu trong cõi
lòng và “cả những lúc giận anh mà lòng em vẫn nhớ”. Nỗi nhớ ấy mới khắc khoải, bồn chồn, thổn thức sâu thẳm biết
nhường nào! Hai câu thơ “Lòng em nhớ đến anh; cả trong mơ còn thức” đã diễn tả được một cách thật xúc động
và chân thực cõi lòng của người phụ nữ đang yêu bằng một tình yêu thật trong sáng và mãnh liệt.
“Em” nhớ “anh” từ cõi thực đến cõi mơ. Cái thức trong giấc mơ mới là tình cảm thật nhất, sâu sắc nhất của
cõi lòng. Bàn chân con người có thể “xuôi về phương Bắc” hay “ngược về phương Nam”, nhưng trái tim thì chỉ
“hướng về anh một phương” như hoa hướng dương hướng về mặt trời vậy… Ở đây, một lần nữa, Xuân Quỳnh
đã mượn kết cấu trùng điệp để làm tăng tiến nỗi nhớ của lòng mình. Với người phụ nữ ấy, không phải
phương Bắc hay phương Nam mà chỉ là một phương duy nhất. Đó là phương của tâm trạng, của trái tim.
Thành thật và cháy bỏng đến nhường ấy, da diết đến nhường ấy! Dù hơi bộc trực và táo bạo, nhưng sự đắm say
của khát vọng tình yêu đã trở thành điểm tựa để thơ Xuân Quỳnh cất cánh. Đoạn thơ trên của Xuân Quỳnh
vừa là tiếng nói tha thiết cháy bỏng của trái tim người phụ nữ trong nỗi nhớ, vừa được viết với thủ pháp
nghệ thuật của bàn tay một thi sĩ tài hoa. Nỗi nhớ được thể hiện hằng hình tượng gián tiếp chưa đủ, nó
còn được biểu hiện trực tiếp như trái tim không thể kìm nén nổi, tự thốt thành lời:
“Lòng em nhớ đến
anh Cả trong mơ còn thức”
Để nhấn mạnh tính đa
dạng, sâu đằm của nỗi nhớ, tác giả còn sử dụng thủ pháp điệp “con sóng” (ba
lần), nhân cách hoá
“con sóng nhớ bờ”, biện pháp đối lập “dưới lòng sâu” – “trên mặt nước”. Nỗi nhớ
ở đây đã trở thành tình cảm thường trực
trong “trái tim bé nhỏ mà không bến bờ” của thi sĩ cứ trào dâng, cứ tầng tầng, lớp lớp tưởng chừng như tới tột độ,
cứ nối tiếp nhau hối thúc trào ứ trong tâm hồn. Đã có biết bao câu ca dạo, biết bao bài thơ viết rất hay về
nỗi nhớ của người phụ nữ trong tình yêu:
“Em nhớ anh không chỉ
trong giấc ngủ Em nhớ anh không chỉ lúc
dạo chơi Em nhớ anh không chỉ khi trăng
tỏ
Em nhớ anh không chỉ
lúc mưa rơi Ôi! Cái nhớ sao mà kì diệu
Ôi! Cái thương sao
khéo mặn mà
Có phải lúc xa nhau
ta mới hiểu
Hết lòng người trong
mỗi phút giây qua”
(Hoàng Thị Minh
Khanh)
Ở trong bài thơ này,
Xuân Quỳnh đã có thêm một tiếng nói mới mẻ về tình cảm đó bằng những vần
thơ giản dị mà sâu sắc và không kém phần độc
đáo.
5. Tình yêu chân
chính là như vậy: vừa sôi nổi thiết tha, mãnh liệt, vừa trong sáng, thuỷ chung
và luôn gắn với lòng tin. Vì tình yêu mà
thi sĩ suy tư ở đây không phải là một thứ tình cảm phiêu diêu, huyền
ảo nào, mà là tình
yêu trần thế gắn với đời thường. Mà đời thường không hoàn toàn bình yên, phẳng
lặng; trái lại, lắm khi gặp giông tố,
bão bùng. Vì vậy, trong tình yêu cần phẩm chất thuỷ chung, ý chí, nghị lực, sức mạnh của tình cảm để vượt qua mọi không
gian, thời gian, mọi trắc trở để tìm đến bến bờ của hạnh phúc lứa đôi:
“Ở ngoài kia đại
dương Trăm ngàn con sóng đó Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở”
Hãy quan sát cái hiện
tượng gần như trở thành quy luật có vẻ nghịch lý của đại dương. Dù gió từ bờ thổi ra thì sóng ở ngoài xa vẫn hướng vào bờ.
“Em” cũng thế. Cho dù gặp biết bao trở ngại, “em” cũng sẽ vượt qua hết để đến với “anh”, đến với một
mái ấm hạnh phúc gia đình… (như Chế Lan Viên đã viết:
“Cây nối đầu cây chạy
đến em
Đếm cây hoài lại mọc
cây thêm Tình anh làm cái cây sau
chót Về tới quê em mọc tận thềm”
Khi đã yêu thực lòng
thì dù muôn vời cách trở, chúng ta vẫn đến được với nhau. Ca dao xưa đã từng viết: “Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
Ngũ lục sông cũng lội,
thất bát cửu đèo cũng qua”
Tình yêu là như vậy,
luôn luôn gắn liền với lòng tin, tin ở cuộc đời, tin ở người mình yêu, tin ở
chính sức mạnh của tình yêu. Chả thế mà
"Qua bấy nhiêu năm tháng sống dưới cảnh đạn bom tàn phá những gì quý giá do chính bàn tay mình xây dựng nên, vậy
mà trong tâm hồn người con gái nhỏ bé (Nguyệt), tình yêu
và niềm tin mãnh liệt
vào cuộc sống, cái sợi chỉ xanh óng ánh ấy, dù cho bao nhiêu bom đạn dội xuống
cũng không hề đứt, không thể nào tàn phá
nổi” (Mảnh trăng cuối rừng - Nguyễn Minh Châu).
6. Bài thơ thoáng một
chút khắc khoải, lo âu về sự chảy trôi của thời gian, cái ngắn ngủi của cuộc
đời mình và tình yêu cuả bản thân. Giữa lúc
trái tim đang yêu nồng nàn, yêu hết mình, vẫn thấp thoáng một dự cảm day dứt rất chính đáng:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi
qua Như biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa”
Biển dù rộng tới đâu
rồi cũng có bờ, có giới hạn và những đám mây không thể dừng lại mãi mãi trên
biển, mà chúng tiếp tục
cuộc hành trình trên bầu trời để đi đến cõi vô tận xa xăm. Cũng thế, cuộc đời
con người tuy dài nhưng không phải vĩnh
hằng, dù con người không mong đợi, nhưng năm tháng vẫn bình thản trôi qua đời người theo quy luật tất yếu khắc
nghiệt của thời gian. Không gian và thời gian là vô hạn. Ở một chỗ khác, Xuân Quỳnh cũng đã có một câu thơ
tương tự “Thời gian như là gió; Mùa đi theo tháng năm; Tuổi theo mùa đi mãi”.
Vì thế, đứng trước biển,
con người càng có cảm giác về cái nhỏ nhoi, hữu hạn của kiếp người trước
cái vĩnh hằng của vũ trụ. Do đó, con người
luôn luôn có khát vọng được sống trọn vẹn trong tình yêu, khát
khao được gắn bó mãi mãi với cuộc sống này,
hoà nhập với cuộc đời vĩnh hằng bằng tình yêu của mình. Niềm khát khao ấy, Xuân Quỳnh lại gửi vào
hình tượng “sóng”: Những con sóng tan ra không phải để biến mất
trên đại dương mà là để hóa thân, để tồn tại vĩnh viễn trong vô tận
các con sóng khác. Cũng thế, con
người sẽ ra đi, nhưng tình yêu thì ở lại, một
tình yêu vô tận, vĩnh hằng như sóng giữa biển khơi. Đây là một khát vọng mang đậm bản sắc của người con gái
hiện đại và đó cũng là khát vọng rất con người:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng
nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ”
Tình yêu của bản thân
thì hữu hạn với đời người. Muốn nó đi vào vĩnh hằng, chỉ còn một cách là hoà
tan tình yêu của mình
vào những con sóng tình yêu của biển đời để ngàn vạn năm sau, con sóng đó “Vẫn
hát mãi bên ghềnh; Một tình chung không
hết” (Xuân Diệu). Thật là một ý nghĩ và cách nói rất táo bạo! Khát vọng "được tan ra" còn là một khát
vọng hình như muốn xanh tươi hoá sự sống vĩnh cửu tình yêu của mình.Ở đây, tình yêu dường như đã lớn hơn cả
bản thân, dài hơn cả cuộc dời. Trong bài thơ “Tự hát”, nữ thi sĩ Xuân Quỳnh cũng đã khẳng định:
“Em trở về đúng nghĩa
trái tim em Là máu thịt đời thường ai chẳng
có
Vẫn ngừng đập khi cuộc
đời không còn nữa
KẾT BÀI: ....................................................
Câu 3:
Giới thiệu về tác giả,
tác phẩm và vị trí đoạn trích
Xuân Quỳnh ( 1942-
1988) là một trong những gương mặt nổi bật của thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
“ Sóng” là bài thơ
tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Quỳnh: luôn luôn trăn trở khao khát gắn bó với tình
yêu, hạnh phúc đời
thường. Bài thơ được in trong tập “ Hoa dọc chiến hào” ( 1968).
Đoạn trích nằm ở giữa
bài thơ. Đây là đoạn tiêu biểu nhất cho tác phẩm. Giống như toàn bài, ở đoạn thơ này, hai hình tượng “ sóng”, “ em”
luôn luôn tồn tại, đan cài, khắc hoạ rõ nét nỗi nhớ da diết,
thường trực, cháy bỏng và sự thuỷ chung tha
thiết của nhà thơ. Mỗi trạng thái tâm hồn của người phụ nữ đều
có thể tìm thấy sự
tương đồng với một đặc điểm nào đó của “ Sóng”.
2. Bình giảng 6 câu đầu:
Nỗi nhớ thường trực da diết cháy bỏng.
Nỗi nhớ bao trùm cả
không gian, thời gian: lòng sâu, mặt nước, ngày- đêm.
Nỗi nhớ thường trực, không
chỉ khi thức mà cả khi ngủ, len lỏi cả vào trong giấc mơ, trong tiềm thức ( cả trong mơ còn thức).
Cách nói có cường điệu,
nhưng đúng và chân thành biểu hiện nỗi nhớ của mình một tình yêu mãnh liệt ( ngày đêm không ngủ được).
Mượn hình tượng
“sóng” để nói nỗi nhớ vẫn chưa đủ, chưa thoả, nhà thơ trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ của mình ( lòng em nhớ đến anh).
Bình giảng 4 câu thơ
tiếp theo: Khẳng định lòng thuỷ chung sâu sắc.
Dù ở phương nào, nơi
nào cũng chỉ hướng về “ phương anh”. Trong cái mênh mông của đất trời có phương Bắc, phương Nam, trái tim em chỉ có một
phương- phương tâm trạng của người phụ nữ đang yêu
say đắm, thiết tha.
Những nét đặc sắc nghệ
thuật:
4.1- Thể thơ năm chữ
đầy sáng tạo phù hợp với nhịp sóng, nhịp lòng thi sĩ. 4.2- Nỗi nhớ biểu hiện bằng hình tượng “
sóng”.
4.3- Nỗi nhớ được biểu
hiện trực tiếp.
4.4- Thủ pháp “ đối lập”:
dưới >< trên; lòng sâu>< mặt nước.
4.5- Dùng điệp từ “ con sóng” ba lần.
4.6- Nhân cách hoá: “
con sóng nhớ bờ”… 4.7- Nỗi nhớ thường trực.
4.8- Thuyền ( con trai)-
Bến ( con gái)- “ sóng” chủ động tìm đến bờ-> tính hiện đại trong thơ
Xuân Quỳnh về tình yêu.
4.9- “ Sóng” đặt đôi
sánh với “ em” làm cho “ em” mang thêm nhiều đặc tính của “ sóng”, và ngược lại “ sóng” cũng sẽ mang them những trạng
thái cảm xúc đầy nữ tính của “ em” ồn ào, dữ dội -> lặng lẽ dịu êm, vỗ trên mặt nước, vỗ dưới lòng sâu.
4.10- Nhưng “ sóng”
và “ em” cũng có sự khác nhau, “ sóng” nhớ bờ ngày đêm thao thức không ngủ
được nhưng đó là thời
gian hiện thực. Còn “ em” nhớ “ anh” từ cõi thực đến cõi mơ, nghĩa là “em” còn
thao thức,khắc khoải, da diết hơn “lòng
em nhớ đến anh…cả trong mơ còn thức”.
5. KẾT LUẬN: Chỉ
trong một đoạn thơ ngắn, Xuân Quỳnh đã thể hiện rất gợi cảm, sinh động những trạng thái cảm xúc, những khát khao
mãnh liệt của một người phụ nữ đang yêu.
- Đó cũng chính là
tâm hồn người phụ nữ VN trong tình yêu táo bạo, chủ động, mạnh mẽ nhưng vẫn giữ được nét đẹp truyền thống (thuỷ chung, gắn
bó).
Câu 4:
Vài nét về tác giả và
tác phẩm
a - Xuân Quỳnh (1942
- 1988) là một trong những gương mặt tiêu biểu của các nhà thơ nữ thời
chống Mỹ. Con đường
thơ của bà gần một phần tư thế kỷ khá phong phú về số lượng và tươi rói chất hiện thực đời sống.
b - Thơ Xuân Quỳnh là
tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn; vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết
trong khát vọng về hạnh phúc bình dị, đời thường.
c - "Sóng"
được sáng tác trong năm 1967, là bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, rất tiêu biểu
cho phong
cách thơ Xuân Quỳnh.
Vẻ đẹp tâm hồn người
phụ nữ trong bài thơ "Sóng"
a - Qua hình tượng
"Sóng", Xuân Quỳnh đã diễn tả cụ thể sinh động những trạng thái, cung
bậc tình cảm khác nhau của người phụ nữ
nhân hậu, khao khát yêu thương và hướng tới tình yêu cao cả, lớn lao.
b - Thể hiện một tình
yêu sôi nổi, mãnh liệt, một nỗi nhớ da diết (Chiếm lĩnh cả thời gian và không
gian; Chiều rộng và
chiều sâu,...):"Con sóng dưới lòng sâu - Con sóng trên mặt nước",
"Lòng em nhớ đến anh - Cả trong mơ
còn thức".
c - Luôn hướng về một
tình yêu chung thuỷ son sắt: "Nơi nào em cũng nghĩ - Hướng về anh - một phương".
d - Khát vọng có được
một tình yêu vĩnh hằng, bất tử:"Làm sao được tan ra - Thành trăm con
sóng nhỏ - Giữa biển lớn tình yêu - Để
ngàn năm còn vỗ"
e - Đặc sắc nghệ thuật:
ẩn dụ (mượn hình tượng "Sóng"để thể hiện tình yêu một cách sinh động,
gợi cảm); thể thơ 5 chữ nhịp điệu linh
hoạt, nhịp nhàng gợi âm vang của Sóng, ngôn ngữ giản dị, trong sáng, hình ảnh thơ giàu sức gợi.
Đánh giá chung:
Bài thơ
"Sóng" của Xuân Quỳnh đã thể hiện được sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của
người phụ nữ Việt Nam trong tình yêu; một
tình yêu hiện đại, mới mẻ nhưng vẫn không tách rời truyền thống.
Câu 5:
Gợi ý
Giới thiệu chung về
tác giả, tác phẩm
Cảm nhận
- Đoạn thơ trích
trong Việt Bắc:
+ Thể hiện nỗi nhớ của
người cán bộ kháng chiến về những tháng ngày gắn bó với quê hương cách mạng
Việt Bắc. Đoạn thơ
tái hiện những kỉ niệm về những tháng ngày gian khổ mà ân tình, trong đó cả những
kỉ niệm về thiên nhiên, những kỉ niệm về
cuộc sống con người Việt Bắc đơn sơ, nghèo khó nhưng tình nghĩa.
+ Thể thơ lục bát với
âm hưởng của một khúc hát trữ tình, thiết tha sâu lắng, hình ảnh đẹp, gợi cảm.
Thủ pháp điệp và các từ ngữ biểu đạt cảm
xúc láy đi láy lại tạo nên âm hưởng riêng cho đoạn thơ.
- Đoạn thơ trích
trong Sóng
+ Thể hiện nỗi nhớ da
diết, sâu lắng, thường trực của người phụ nữ trong tình yêu. Mượn hình ảnh ẩn dụ sóng với các không gian, thời gian tồn tại
khác nhau, nhân vật trữ tình bộc bạch cảm xúc nhớ nhung cháy
bỏng của mình. Chưa dừng
lại ở đó, hai câu cuối cùng của đoạn còn trực tiếp giãi bày cảm xúc nhớ
nhung cồn cào trong tâm thức nhân vật trữ
tình.
+ Hình ảnh ẩn dụ sóng
và thủ pháp trùng điệp cấu trúc, điệp từ ngữ trong dạng thức thể thơ ngũ ngôn
mang âm hưởng riêng là đặc sắc nghệ thuật
cơ bản làm nên tính gợi cảm rất đặc trưng của đoạn thơ này.
c. Nét tương đồng và
khác biệt
Tương đồng: đều tập
trung diễn tả cảm xúc nhớ nhung với những cung bậc trạng thái khác nhau được đặt trong mỗi quan hệ với không gian thiên nhiên
mênh mang và thời gian dằng dặc.
Khác biệt
+ Đoạn thơ trong Việt
Bắc tái hiện tình cảm chính trị giữa người cán bộ kháng chiến với quê hương
cách mạng Việt Bắc còn đoạn thơ trong
Sóng của Xuân Quỳnh nỗi nhớ mang sắc thái cảm xúc cá nhân xuất phát từ tình yêu đôi lứa.
+ Việt Bắc biểu đạt nỗi
nhớ một cách trực tiếp còn ở Sóng nữ sĩ mượn hình tượng ẩn dụ sóng để thể hiện nỗi nhớ của con người
+ Việt Bắc sử dụng thể
thơ lục bát với âm hưởng một khúc ca trữ tình sâu lắng, dặt dìu như khúc hát lời
ru
còn Xuân Quỳnh lại sử
dụng thể thơ ngũ ngôn với âm hưởng dạt dào của sóng biển.